Huyền thoại: chất dinh dưỡng của độc tài
Viết bài
“Sự mù quáng vô tận”, tôi
không nhắm đến mục tiêu phê phán người dân Trung Quốc. Tôi chỉ muốn chứng minh
hai điều:
Một, dù có nhiều điểm tương đồng, giữa độc tài phát-xít và độc tài Mác-xít vẫn
có một điểm khác biệt lớn: Trong khi chủ nghĩa phát-xít dựa trên một số niềm
tin gắn liền với một số thành kiến về chủng tộc và với một thứ chủ nghĩa quốc
gia hẹp hòi, chủ nghĩa Mác-xít lại dựa trên một nền tảng triết học có vẻ rất đồ
sộ và nguy nga, nhờ thế, một mặt, nó dễ dàng thuyết phục được giới trí thức, và
mặt khác, cũng rất dễ được huyền thoại hóa.
Hai, vì yếu tố huyền thoại ấy, độc tài Mác-xít sống dai dẳng hơn hẳn độc tài
phát-xít. Chủ nghĩa phát-xít, lúc còn mạnh, không làm dấy lên một phong trào
văn học nghệ thuật tương ứng nào, và khi bị sụp đổ, là sụp đổ hoàn toàn, cả
trong hiện thực lẫn trong ký ức. Chủ nghĩa Mác-xít, ngược lại, ngay từ đầu, đã
gắn liền với cả một phong trào văn nghệ rộng lớn dưới nhãn hiệu chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa, qua đó, thấm nhiễm sâu sắc vào đáy sâu tâm thức của từng
người; hậu quả là, ngay cả khi chủ nghĩa cộng sản, với tư cách một thể chế và
một ý thức hệ, đã bị phá sản, dư âm của nó vẫn còn lại. Sự kéo dài của dư âm ấy
cũng đồng thời là sự kéo dài của họa độc tài.
Sự sùng bái của nhiều người dân Trung Quốc hiện nay đối với thần tượng Mao
Trạch Đông của họ chính là một minh chứng hùng hồn cho sự kéo dài ấy.
Hiện tượng ấy lại cho thấy sự khó khăn và gập ghềnh trong tiến trình dân chủ
hóa ở khắp nơi, đặc biệt, ở các nước độc tài từng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
Mác.
Liên quan đến vấn đề dân chủ hóa, nói chung, có mấy đặc điểm chính: Một, đó là
một xu hướng chung của thế giới. Giới nghiên cứu - đi tiên phong và tiêu biểu
nhất là Samuel Huntington - chia tiến trình dân chủ hóa ấy thành từng đợt,
giống như đợt sóng, hết đợt thứ nhất (từ khoảng 1810 đến khoảng 1922) đến đợt
thứ hai (khoảng 1944-1957), thứ ba (khoảng từ 1974 đến đầu thập niên 1990), và
gần đây, với sự sụp đổ của nhiều chế độ độc tài ở Trung Đông và châu Phi, nhiều
người lại nói đến đợt sóng dân chủ thứ tư. Hai, tuy nhìn chung, các đợt sóng
dân chủ hóa ấy có sức mạnh mãnh liệt, hết càn quét chế độ độc tài ở nước này
lại càn quét chế độ độc tài ở nước khác, tiến trình dân chủ hóa vẫn có những
thoái trào nhất định: thay vì phát triển theo đường thẳng, nó lại chạy lòng
vòng hoặc theo những đường cong đầy khúc khuỷu, như những gì chúng ta đang nhìn
thấy ở các nước Hồi giáo Trung Đông và Bắc Phi. Ba, trong sự phát triển của dân
chủ, có một số nơi dường như may mắn, ở đó, dân chủ một khi đã xuất hiện cứ
ngày một nảy nở xum xuê; ở một số nơi khác, ngược lại, nó cứ còi cọc, quặt
quẹo, lúc nào cũng có nguy cơ bị chết héo.
Đặc điểm thứ ba vừa nêu thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu. Họ đặt
câu hỏi: Tại sao? Tại sao dân chủ có thể phát triển dễ dàng ở nơi này hơn ở nơi
khác? Tại sao, trên lý thuyết, dân chủ nhắm đến việc phát huy quyền tự do của
mỗi người, đáng lẽ mọi người phải hân hoan đón nhận, thế nhưng, ngược lại,
nhiều người, rất nhiều người, kể cả những người thiếu tự do nhất, lại dửng
dưng, thậm chí, run sợ, muốn quay mặt đi? Tại sao?
Tất cả những câu hỏi tại sao ấy lại dẫn đến một câu hỏi khác: Vậy, điều kiện,
hoặc những điều kiện chính của dân chủ là gì?
Câu hỏi này sẽ dẫn đến một câu hỏi khác có tính thực dụng và thực tiễn hơn: Để
xây dựng một chế độ dân chủ thực sự, yếu tố nào cần được xây dựng trước?
Trong cuốn Người Đông Á quan niệm về dân chủ như
thế nào (How East
Asians View Democracy) do Columbia University Press xuất bản năm 2010, các nhà
biên tập, Yun-han Chu, Larry Diamond, Andrew J. Nathan và Doh Chull Shin, trong
lời giới thiệu, đã chia cuộc hành trình nhận thức về dân chủ thành ba giai đoạn
chính:
Thứ nhất, giai đoạn đầu, từ thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, các lý
thuyết gia cho rằng có nhiều yếu tố tác động đến quá trình tiến hóa của dân
chủ, trong đó, có yếu tố văn hóa chính trị. Đi tiên phong trong giai đoạn này
là Dankwart Rustow, người cho rằng cuộc dân chủ hóa nào cũng bắt đầu, trước hết,
bằng sự thống nhất của quốc gia, sau đó, bằng việc tranh đấu để chấm dứt sự bất
bình đẳng về các phương diện chính trị, kinh tế và xã hội, sau đó, là quyết
định xây dựng các thiết chế cần thiết cho dân chủ; và cuối cùng, mọi người, từ
trí thức đến bình dân, dần dần làm quen với dân chủ để ứng xử theo các nguyên
tắc dân chủ.
Thứ hai, suốt thập niên 1970 và thập niên 1980, không hiểu sao giới nghiên cứu
lại xao nhãng yếu tố văn hóa chính trị. Mọi người đều chỉ tập trung vào cấu
trúc xã hội, những thay đổi trong giới trí thức và các thiết chế chính trị.
Thứ ba, từ thập niên 1990 đến nay, người ta lại chú ý đến văn hóa chính trị,
hơn nữa, xem văn hóa chính trị như là yếu tố trung tâm trong tiến trình dân chủ
hóa. Trong cái gọi là văn hóa chính trị ấy, người ta không những chỉ tập trung
vào giới trí thức mà còn cả giới bình dân, nếu không muốn nói, đặc biệt là giới
bình dân: Chính niềm tin và thái độ của giới bình dân là một trong những yếu tố
quyết định vận mệnh của dân chủ.
Nói một cách tóm tắt, hiện nay, phần lớn giới nghiên cứu về chính trị học đều
tin là, để có dân chủ, người ta cần có nhiều thứ, ví dụ, một, sự thức tỉnh và
dấn thân của giới trí thức; hai, sự phát triển của kinh tế phải đến một mức độ
nào đó, để, một mặt, có một tầng lớp trung lưu tương đối mạnh, mặt khác, để mọi
người không còn chỉ biết hùng hục lo cho miếng cơm manh áo, những nhu cầu sơ
đẳng và nhỏ nhặt hằng ngày; ba, một môi trường quốc tế thích hợp và có tác động
tích cực đến xu hướng dân chủ hóa; và bốn, quan trọng nhất, là thái độ của quần
chúng.
Nhìn vào tình hình chính trị ở châu Á những năm gầy đây, các nhà nghiên cứu cho
rằng hầu hết các nền dân chủ non trẻ ở đây đều gặp thử thách nghiêm trọng.
Không kể Trung Quốc, nơi chưa có dân chủ, từ Hong Kong đến Đài Loan, từ Thái
Lan đến Mông Cổ, từ Hàn Quốc đến Nhật Bản, ở đâu cũng có những đợt khủng hoảng,
với những mức độ khác nhau, về dân chủ.
Lý do chính, theo các tác giả của cuốn Người Đông Á quan niệm về dân chủ như
thế nào là vì nền
tảng của tính chính đáng của dân chủ ở đó còn rất yếu ớt và mong manh. Một mặt,
nhiều người dân vẫn nuối tiếc cái thời độc tài đã qua. Tự do gắn liền với cạnh
tranh; cạnh tranh cần sự quyết liệt và có sự hơn thua rõ ràng: Những người thua
cuộc, nhất là trong cuộc chạy đua về kinh tế và quyền lực, dễ có tâm lý bất
mãn. Tâm lý này, thật ra, cũng rất dễ nhìn thấy ở Nga và Đông Âu hiện nay:
người ta thấy cuộc sống dưới chế độ độc tài cộng sản trước đây có vẻ dễ dàng
hơn, ở đó, ai an phận nấy, cứ đến tháng lại cầm sổ lương thực đi mua thịt mua
cá, không phải tính toán hay cố gắng gì nhiều, dù với cái giá người ta phải trả
là mất tự do. Mặt khác, người ta vẫn chưa quen với trò chơi dân chủ, chưa phục
tùng quyết định của đa số, vẫn muốn dùng sức mạnh, hoặc bằng bạo lực hoặc của
đám đông qua các cuộc xuống đường biểu tình để xóa bỏ kết quả của các cuộc bầu
cử.
Điều cuối cùng vừa nêu thấy rõ nhất là ở Thái Lan. Cứ bất mãn chính phủ điều gì
là người ta lại xuống đường biểu tình để đòi thay chính phủ, bất chấp sự kiện
chính phủ ấy đã chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu trước đó. Xin lưu ý là ở các
quốc gia có truyền thống dân chủ lâu dài và vững chắc ở Tây phương, người ta
cũng thường xuống đường biểu tình nhưng mục tiêu của các cuộc biểu tình ấy là
nhằm để gây sức ép làm thay đổi một số chính sách nào đó chứ không phải là thay
đổi bản thân chính phủ. Việc thay đổi chính phủ, người ta để các lá phiếu quyết
định.
Ở đây, chúng ta thấy có sự khác biệt quan trọng trong nội dung của văn hóa
chính trị ở các nước đã có dân chủ, dù là dân chủ non trẻ và ở các nước chưa có
dân chủ. Điều kiện để nuôi dưỡng dân chủ, ở các nước đã ít nhiều có dân chủ, là
sự tin tưởng vào thể chế và giới hạn mục tiêu tranh đấu vào lãnh vực chính
sách, trong khi đó, ở các nước chưa có dân chủ, điều kiện thiết yếu là sự bất
tín nhiệm đối với thể chế hiện hữu và nhắm đến mục tiêu thay đổi thể chế.
Trong trường hợp thứ hai, tiến trình dân chủ hóa ở các nước chịu ảnh hưởng của
chủ nghĩa Mác gặp nhiều khó khăn hơn, chủ yếu, vì áp lực của các huyền thoại
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp vốn được hệ thống tuyên truyền của
nhà nước nuôi dưỡng quá lâu. Với các huyền thoại ấy, người ta hoặc vẫn tiếp tục
có ảo tưởng vào một tương lai tươi sáng nào đó hoặc đâm ra dễ dàng tha thứ cho
các tội ác trong hiện tại, xem chúng như những cái giá cần phải trả cho một
thiên đường mai hậu. Đó là chưa kể, vì sống quá lâu dưới ách độc tài, chỉ cần
một lời hứa hẹn hoặc một sự thay đổi nho nhỏ, người ta đã thấy thỏa mãn.
Chính sự thỏa mãn ấy là dưỡng khí cần thiết của các chế độ độc tài.