Tại sao chính quyền CSVN vẫn tồn tại? Và họ còn tồn tại bao lâu?
Nam Phương
phỏng vấn Gs. Nguyễn Mạnh Hùng
Theo Người
Việt, số Xuân giáp Ngọ (trang 184-185)
Hỏi: Dù
có rất nhiều áp lực của quần chúng hơn bao giờ hết và ngay cả trong nội bộ
đảng, tại sao chính quyền CSVN vẫn tồn tại? Và họ còn tồn tại bao lâu? Hay các
áp lực quá yếu nên sẽ không có gì thay đổi?
Đáp: Quả thật chính quyền CSVN
đang chịu áp lực thay đổi ngày càng gia tăng; áp lực ấy còn lớn hơn các áp lực
đã làm xụp đổ các chế độ cộng sản Đông Âu cuối thập niên 1980. Ở Đông Âu, đó là
kết hợp của đòi hỏi tự do dân chủ với chủ nghĩa dân tộc bởi vì người dân cho
rằng chính quyền của họ quá lệ thuộc vào Nga Xô. Hai yếu tố ấy đều có ở Việt
Nam ngày nay, cộng thêm với bất mãn của quần chúng đối với nạn tham nhũng lan
tràn, tình trạng bất công xã hội, khoảng cách giàu-nghèo quá lớn, và bất mãn
của nông dân trước hành động chiếm đất mà không có bồi thường thỏa đáng của
chính quyền đôi khi đẩy người ta vào tình trạng tuyệt vọng. Với những áp lực
ấy, chính quyền cộng sản như đang ngồi trên một thùng thuôc súng, nó có thể nổ
tung bất cứ lúc nào. Hiện tượng ”tức nước vỡ bờ” chỉ trong vòng 2 tháng đã làm
xụp đổ chính quyển độc tài ở Tunisia đầu năm 2011 là một đe dọa thường trực đối
với chế độ hiên hữu ở Việt Nam.
Lý do chính khiến chế độ CSVN tồn tại vì họ kiểm
soát được phương tiện đàn áp và dám xử dụng phương tiện ấy. Đó là lý do khiến
cho cuộc tranh đấu của sinh viên Trung Quốc ở Thiên An Môn năm 1989 và cuộc
“cách mạng áo cà sa” (saffron revolution) ở Miến Điện năm 2007 bị dập tắt,
trong khi các đòi hỏi lật đổ độc tài lai thành công ở Đông Âu.
Nếu không phải là nhà tướng số và tin tướng số thì
khó ai dám đoán chắc chính quyến CSVN còn tồn tại được bao lâu, chỉ biết với
những áp lực kể trên, nó không thể tồn tại mãi mãi dưới hình thức này.
Áp lực thay đổi ở Việt Nam hiện này chưa đủ mạnh để
chính quyền trùn tay trong việc xử dụng phương tiên đàn áp, nhưng không đủ mạnh
không có nghĩa là nó cứ yếu mãi. Tương quan giữa cố gắng duy trì nguyên trạng
và áp lực thay đổi có ảnh hưởng hỗ tương. Quần chúng càng bất mãn thì áp lực
đàn áp hoặc thay đổi càng gia tăng, đến một lúc nào đó khả năng kiểm soát
phương tiện đàn áp và ý chí sư dụng phương tiện ấy sẽ kém đi. Lúc ấy thay đổi
sẽ đến, hoặc bằng thương thuyết và tương nhương như trường hợp Đông Âu, hoăc
bạo loạn như trong “Mùa Xuân Á Rập.”
Hỏi: Làm sao để có dân chủ thực sự ờ Việt Nam?
Đáp: Đây là một câu hỏi chính đáng nhưng khó có câu
trả lời khiến mọi người thỏa mãn. Vả chăng, nói thì dễ mà làm thì khó. Tôi xin
trả lời câu hỏi của ông trong tinh thần ấy và trong giới hạn sự hiểu biết của
tôi.
Hiện nay, Việt Nam đang sống trong một chế độ độc
tài, độc đảng; nghĩa là không có dân chủ. Muốn có dân chủ thì trước hết phải gỡ
bỏ chế độ ấy đi. Có 4 phương cách chính để thay đổi chế độ. Cách thứ nhất là
cải tổ từ bên trên, như ở Nga dưới thời Gorbachev, Đài Loan dưới thời Tưởng
Kinh Quốc. Cách thứ hai là bẳng điều đình, tương nhượng (đôi khi xảy ra sau các
cuộc biểu tình, xuông đường, và đàn áp), như ở Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc,
Đại Hàn. Cách thứ ba là bẳng bạo loạn bộc phát, lật đổ như ở Tunisia, Lybia, và
Ai Cập. Cách thứ tư có thể, có thể thôi, là bằng một cuộc nội chiến như đang
xảy ra ở Syria.
Kinh nghiệm chuyển đổi thể chế độc tài từ Đông Âu,
qua Bắc Á dến Trung Đông cho thấy chuyển đổi qua phương thức hòa bình dễ dẫn
đến dân chủ hơn là qua bạo loạn vì bạo loạn, nếu kéo dài, thường tạo điều kiên
cho sự phát triển của những phong trào quá khích với những lãnh tụ quá khích.
Vì thế, tầm nhìn, khả năng, và sư chọn lựa của nhà lãnh đạo chính quyền đương
nhiệm cũng là yếu tố rất quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa.
Lật đổ hay thay thế được chế độ độc tài không nhất
thiết dẫn đến chế độ dân chủ. Dân chủ không phải là hậu quả tự nhiên hay tất
yếu của sự xụp đổ một chính quyền độc tài. Dân chủ cũng không nhất thiết là kết
quả của một cuộc bàu cử tự do. Đôi khi cuộc bàu cử tự do sau cách mạng có thể
dẫn đến một chính phủ do đại đa số bàu lên, nhưng lại không phải là một chính
quyền dân chủ, như trường hợp Iran dưới các ayatollahs, và Ai Cập dưới sự lãnh
đạo của Muslim Brotherhood . Người ta gọi hiện tượng này là dân chủ phi tự do
(illiberal democracy). Hơn nữa, dân chủ cũng không nhất thiết đưa đến một chính
quyền hữu hiệu, một điều kiện rất cần thiết của một quốc gia chậm tiến. Những
gì xảy ra ở Ai Cập và sự tê liệt của chính quyên Mỹ trong thời gian gần đây bắt
nguồn từ đòi hỏi của các chính trị gia quá khích là những trường hợp điển hình.
Việc xây dựng dân chủ sau thời cộng sản là một công
tác quan trọng và khó khăn chẳng kém gì việc lật đổ chế độ. Vậy, thế nào là dân
chủ, và dân chủ đòi hỏi những điều kiện gì?
Các học giả không đồng ý với nhau về số điều kiện
cần có của nền dân chủ. Có người đề nghị 8 điều kiện (như Robert A. Dahl), có
người đúc kết thành 3 điều kiện (như Georg Sorensen). Nói chung, dân chủ đòi
hỏi những yếu tố cốt lõi tối thiểu sau đây:
1. Dân chủ, nói nôm na, là người dân phải làm chủ
mình. Điều này có nghĩa là người dân có quyền tham dự vào việc làm chính sách
công (public policy) có ảnh hưởng đến họ. Nhưng, trừ trường hợp trưng cầu dân
ý, không phải lúc nào người dân cũng có thể trực tiếp tham dự vào việc làm
chính sách chung, cho nên họ phải có quyền bàu người đại diện cho họ làm chuyện
ấy. Việc này được thực hiện qua thể thức bàu cử tự do.
2. Trong cuộc bàu cử này, người dân phải có sự lựa
chọn thực sự. Điều này có nghĩa là phải có sự cạnh tranh giữa những người và tổ
chức muốn đại diện cho dân. Chế độ độc đảng không thể là một chế độ dân chủ.
3. Dân chủ có nghĩa là chính sách công phải phản
ánh sự lưa chọn của đa số, nhưng quyền bất đồng chính kiến của thiểu số phải
được bảo vệ, vì khi hoàn cảnh hay nhu cầu thay đổi, phe thiểu số hôm nay có thể
trở thành đa số ngày mai. Điều này có nghĩa là các quyền căn bản của người dân
phải được luật pháp và thủ tục chính trị bảo vệ.
Để tránh lạc đường vào một nền dân chủ phi tự do,
ba điều kiện tối thiểu của một nền dân chủ đích thực là: bàu cự tự do, cạnh
tranh chính trị, và tôn trọng các quyền căn bản và bất khả xâm phạm của người
dân.
Lý thuyết là như vậy, nhưng làm thế nào để áp dụng
lý thuyệt ấy vào thực tế?
Đối với những quốc gia chậm tiến về phương diên
chính trị, thì trong lúc ban đầu, yếu tố quan trọng nhất là tầm nhìn, bản lãnh,
khả năng của các nhà lãnh đạo chính trị. Đó là lý do tại sao cuộc Cách Mạng Hoa
Kỳ 1776, dù các nhà lập quốc không hoàn toàn đồng ý với nhau về bản chất và
quyền hạn của chính quyền liên bang, vẫn đem đến ngay một nền dân chủ vững
vàng, trong khi cuộc Cách Mạng Pháp 1789 phải trải qua một thời kỳ cực quyền
mới đi đến dân chủ. Gần đây hơn, cái nhìn sáng suốt và cải tổ chính trị ngay
trong nội bộ Quốc Dân Đảng của Tưởng Kinh Quốc đã giúp cho Đài Loan chuyển đổi
tương đối ôn hòa từ một chế độ độc tài sang chế độ dân chủ. Ở Đại Hàn, cạnh
tranh và tương nhượng giữa Roh Tae Woo, Kim Young Sam, và Kim Dae Jung sau
những cuộc biểu tình và đàn áp đẫm máu cũng giúp cho nước này đi từ một chế độ
độc tài sang dân chủ. Tiến trình này có thể đang xảy ra ở Miến Điện.
Cuộc tranh đấu lật đổ chế đô độc tài có nhiều triển
vọng thành công hơn nếu phong trào chống đối được lãnh đạo bởi một nhân vật có
tầm vóc và trí tuệ, trung thành với quy luật dân chủ, và được sự ủng hộ của
quần chúng cũng như sự kính nể, dù miễn cưỡng, của một số người lãnh đạo chính
quyền độc tài, như Vaclav Havel ở Tiệp Khắc. Càng tốt hơn khi nhân vật này được
hậu thuẫn bởi một lực lượng có tổ chức và đoàn kết, như Lech Walesa ở Ba Lan,
Nelson Mandela ở Nam Phi, Kim Dae Jung ở Đại Hàn. Sức mạnh của tổ chức không
những chỉ quan trọng trong khi tranh đấu mà còn ngay sau khi chính quyền độc
tài bị lật đổ. Nếu những người hay tổ chức tranh đấu cho dân chủ không đoàn kết
, chia rẽ nhau, và không thu phục được sự ủng hộ của quần chúng thì cuộc tranh
đấu của họ dễ bị “cướp tay trên” bởi những thành phần phản dân chủ.
Vì vai trò của nhà lãnh đạo lúc đầu quan trọng như
thế, họ thường được dân chúng thán phục và ủng hộ, và họ dễ biến thể từ một nhà
dân chủ thành một nhà đôc tài, nếu họ không tư chế và không có lực lượng kìm
hãm họ. Nước Mỹ có thể không có những cuộc bàu cử Tổng Thống đều đặn như ngày
nay nếu George Washington không cương quyết từ chối mọi đề nghị ông tiếp tục
ứng cử Tổng Thống khi nhiệm kỳ chấm dứt. Người ta cho rằng sau khi đánh thắng
quận Anh giành độc lập cho nước Mỹ, tướng George Washington được toàn dân biết
ơn và ngưỡng mộ đến nỗi họ có thể bằng lòng cho ông làm vua nước này, nếu ông
muốn.
Tuy yếu tố cá nhân lãnh đạo quan trọng như thế, một
nền dân chủ bền vững còn đòi hỏi nhà lãnh đạo phải xây dựng định chế mạnh để nó
có thể tồn tại sau khi mình rời chính quyền và có khả năng duy trì ổn định
chính trị dù dưới một nhà lãnh đạo không xuất chúng. Đó là lý do tại sao
Mustafa Kemal được ghi công là người không những đã đem lại độc lập và canh tân
cho Thổ Nhĩ Kỳ mà còn lập ra mỗt đảng chính trị, Đảng Cộng Hòa Nhân Dân
(Republican People’s Party) và cho phép sự thành lập một đảng đối lập, Đảng
Cộng Hòa Cấp Tiến (Progressive Republican Party) làm nền móng cho chế độ đa
đảng tiếp tục sứ mệnh canh tân đất nước sau khi ông qua đời.
Đó là những bài học lịch sử, nó có thể giúp cho
người ta tránh được những lỗi lầm. Đó là lý thuyết. Áp dụng lý thuyết như thề
nào để đem đến dân chủ đích thực và bền vững cho Việt Nam tùy thuộc vào khả
năng, tầm nhìn, và sự chọn lựa của các nhà tranh đấu cũng như của các nhà lãnh
đạo chính quyền đương nhiệm.