Phát triển trước, dân chủ sau
Nguyễn Hưng Quốc
Để trì
hoãn dân chủ và cũng để biện minh cho chế độ độc tài độc đảng tại Việt Nam,
ngoài hai lý do chính đã nêu trong bài “Ai kiềm hãm dân chủ?”: trình độ dân trí thấp và lòng thù hận
còn ngùn ngụt giữa những người Việt với nhau, giới tuyên huấn Việt Nam còn nêu
thêm một lý do khác: Điều Việt Nam cần nhất hiện nay là giàu mạnh; muốn giàu mạnh
cần có sự tập trung lực lượng, ý chí và chính sách; nghĩa là, nói cách khác, cần
độc tài. Hai tấm gương người ta đưa ra nhiều nhất là Trung Quốc và Singapore.
Người ta hứa hẹn: khi ở Việt Nam, mọi người không những no cơm ấm áo mà còn được
giáo dục tốt, hơn nữa, có đủ mọi thứ tiện nghi xa xỉ khác, dân chúng tha hồ bỏ
điều 4 trong Hiến pháp và thay đổi thể chế. Lúc ấy, muốn tự do hay muốn lập bao
nhiêu đảng cũng được.
Để củng cố cho các quan điểm của mình, một số người nêu một số lý do: Một, dưới
chế độ độc tài, mọi quyết định của giới lãnh đạo dễ dàng hơn, do đó, dễ có hiệu
quả hơn; hai, độc tài duy trì trật tự và nuôi dưỡng tinh thần kỷ luật; ba, độc
tài tiết kiệm được nhiều chi phí hành chính “vô ích” như bầu cử hay lương hướng
cho phe đối lập; và bốn, độc tài tạo nên ổn định xã hội (khi nói ý này, họ chỉ
tay về phía Thái Lan: “Thấy chưa? Ở Thái Lan dân chủ quá nên dân chúng cứ biểu
tình hoài, vừa gây rối trật tự giao thông vừa khó khăn cho việc làm ăn buôn bán
của mọi người!); v.v..
Nghe, ngỡ chừng có lý, nhưng ở đây lại có nhiều vấn đề.
Thứ nhất, không phải chế độ độc tài nào cũng có khả năng làm cho đất nước phát
triển giàu mạnh. Có. Nhưng hiếm hoi. Đầu thập niên 1970, kinh tế Brazil phát
triển mạnh dưới một chế độ quân phiệt; trong thập niên 1980, Singapore, Hàn Quốc
và Đài Loan đều biến thành những con hổ trong lãnh vực kinh tế dù vẫn sống dưới
chế độ độc tài. Trong thập niên 1990, đó là hiện tượng Trung Quốc.
Nhưng tất cả những nước vừa nêu chỉ là những ngoại lệ. Điều kiện chính để các
ngoại lệ ấy trở thành ngoại lệ là quyết tâm và tài năng của người lãnh đạo: Ở Trung
Quốc, đó là Đặng Tiểu Bình và ở Singapore, là Lý Quang Diệu. Ở tất cả các nước
khác, độc tài chỉ dẫn đến sự kiệt quệ về kinh tế, sự lạc hậu về kỹ thuật và sự
suy đồi về văn hóa. Bằng chứng? Nhiều vô cùng. Tất cả các nước cộng sản trước
đây đều độc tài và tất cả đều tệ hại trong mọi phương diện. Ở châu Phi, tất cả
các quốc gia độc tài đều là những quốc gia nghèo đói triền miên và nợ nần thì
chống chất. Hiện nay, hai nước cộng sản độc tài nhất cũng là hai nước bần cùng
nhất: Bắc Hàn và Cuba. Các nhà độc tài Francois Duvalier (thường được gọi là
Cha/Bố Doc) ở Haiti, Saparmurat Niyazov ở Turkmenistan, Rafael Trujillo ở
Dominican Republic, Muammar Gaddafi ở Libya, Mobutu ở Congo, Francisco Macias
Nguema ở Equatorial Guinea, Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật và Kim Chính Ân ở Bắc
Hàn, Saddam Hussein ở Iraq, Mohamed Siad Barre ở Somalia, Mengistu Haile Mariam
ở Ethiopia, Daniel arap Moi ở Kenya, Robert Mugabe ở Zimabwe, Hosni Mubarak ở
Ai Cập, Ibrahim Babangida và Sani Abacha ở Nigeria, Paul Kagame ở Rwanda, v.v. chỉ
có “công” duy nhất là làm cho đất nước của họ ngày càng trở nên cô lập và bần
cùng. Ở Việt Nam, độc tài đã ngự trị trong phạm vi cả nước đã gần 40 năm: Giới
lãnh đạo đã có toàn quyền để làm bất cứ những gì họ muốn, không những không bị
phản đối mà còn không bị cả phản biện nữa, nhưng kết quả ra sao?
Thứ hai, độc tài tự nó không dẫn đến phát triển, hơn nữa, còn đối lập với phát
triển. Để phát triển, ngoài tài nguyên và nhân công, người ta cần những chính
sách sáng suốt; để có các chính sách sáng suốt ấy, người ta cần có trí tuệ. Trí
tuệ, liên quan đến chính sách, đến từ hai nguồn: Một, từ các nhà lãnh đạo; và
hai, từ tập thể. Để có trí tuệ tập thể, hai điều kiện cần nhất là: Một, người
ta phải có khả năng suy nghĩ một cách có phê phán; và hai, người ta có đủ tự do
để phát biểu những điều mình suy nghĩ. Nhưng hai điều kiện ấy lại không thể nảy
nở dưới các chế độ độc tài. Thiếu hai điều kiện ấy, những cái gọi là trí tuệ tập
thể chỉ là những sáo ngữ. Ngay cả trí tuệ thiên tài của một cá nhân cũng có
nguy cơ vấp sai lầm, và vì nguy cơ ấy, cần được phản biện và kiểm tra. Đối lập
tồn tại là để đóng vai trò phản biện và kiểm tra ấy.
Trong bài “Can China Innovate Without Dissent?” đăng trên The New York Times
ngày 21/1/2014, giáo sư Stephen L. Sass, người từng được mời giảng dạy tại
Trung Quốc trong nhiều năm, nhận xét: Mặc dù trong mấy thập niên vừa qua, Trung
Quốc phát triển vượt bậc, nhưng ông không tin là họ có thể vượt qua được Mỹ. Từ
góc độ văn hóa đến góc độ thiết chế và chính trị, Trung Quốc không hề khuyến
khích óc phê phán và sự tự do trong tư tưởng, do đó, không hy vọng gì có thể
cách tân thực sự trong lãnh vực khoa học kỹ
thuật.
Thứ ba, phát triển, tự nó, không dẫn đến dân chủ. Singapore, chẳng hạn, vốn được
xem là một quốc gia phát triển với thu nhập bình quân trên đầu người trên
60.000 Mỹ kim, thuộc loại cao nhất trên thế giới, thế nhưng, cho đến nay, nước
này vẫn bị xếp vào loại “tự do một phần” (partly free). Phần lớn các quốc gia ở
Trung Đông, nhờ các tài nguyên thiên nhiên, chủ yếu là dầu và khí đốt, đều giàu
có với thu nhập bình quân trên đầu người rất cao, có khi, phải nói là cực cao,
như ở Qatar là trên 100.000 Mỹ kim; ở Kuwait là trên 40.000; ở United Arab
Emirates cũng trên 40.000; ở Oman, Bahrain, và Saudi Arabia, đều trên 20.000,
v.v.. Nhờ giàu có, họ cũng rất phát triển. Vậy mà hầu như không có nước nào có
tự do cả. Hiện nay, Nga cũng là một nước phát triển, được xếp vào nền kinh tế
lớn hàng thứ 8 trên thế giới, với thu nhập bình quân trên đầu người khoảng gần
15.000 Mỹ kim, nhưng dưới quyền cai trị của Vladimir Putin, dân chúng vẫn không
hề có tự do.
Thứ tư, khái niệm phát triển không nên chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế; và
trong phạm vi kinh tế, giới hạn trong chuyện thu nhập. Đó chỉ là một khía cạnh.
Trong ý niệm phát triển, còn ít nhất ba khía cạnh khác quan trọng không kém: một
là y tế tốt để tuổi thọ được kéo dài; hai là giáo dục tốt để trình độ dân trí
càng ngày càng cao; và ba là nhân quyền được tôn trọng để mọi người được sống
như những con người thực sự. Dân chúng giàu có bao nhiêu nhưng nếu họ không được
giáo dục và quyền làm người của họ không được tôn trọng, không thể nói là phát
triển được. Hiểu theo nghĩa rộng như vậy, phát triển đồng nghĩa với tự do: Cả
hai đồng hành với nhau. Do đó, nói phát triển trước rồi sau đó mới cho phép tự
do là nói một điều mâu thuẫn. Trong chính trị, mâu thuẫn thường là một sự dối
trá.
Thứ năm, ngoài việc độc tài không bảo đảm phát triển và phát triển không bảo đảm
cho dân chủ, luận điệu trên còn còn quên một khía cạnh khác: Trong các chế độ
chính trị, độc tài hàm chứa nhiều nguy cơ tham nhũng nhất. Cần nhấn mạnh là: do
gắn liền với lòng tham của con người và tính chất không thể hoàn hảo được của mọi
bộ máy công quyền, tham nhũng xuất hiện ở mọi thời và mọi nơi. Không có nơi
nào, ngay cả trong các tôn giáo, tránh được tham nhũng. Vấn đề là ở mức độ. Và
về mức độ, không thể phủ nhận được sự thật này: trên thế giới, trừ Singapore,
nước càng dân chủ bao nhiêu càng ít tham nhũng bấy nhiêu. Lý do rất dễ hiểu:
Dân chủ, trong đó, quan trọng nhất là quyền tự do thông tin và tự do ngôn luận,
tự bản chất, là những biện pháp hữu hiệu nhất để chống tham nhũng.
Bất chấp những lý lẽ trên, Việt Nam vẫn muốn làm một con hổ trước khi dân chủ
hóa.
Tưởng tượng một con hổ vồ một người. Thấy người đó than khóc lạy lục thảm thiết
quá, con hổ bèn an ủi: Không sao đâu, mày cứ nằm yên để tao ăn thịt mày; khi no
rồi, tao sẽ đi bắt vài con bò Kobe về để mày làm…beefsteak nhậu!