quyền tự do đi lại

 theo quy định tại điều Điều 23  Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì :
"Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. "
điều này đã được quy định 1 cách rõ ràng hơn tại bộ luật dân sự tại điều 48 
cụ thể
Quyền tự do đi lại và cư trú của công dân là một trong những quyền nhân thân quan trọng. Trên cơ sở sự công nhận và bảo hộ của Nhà nước mà công dân có thể có một nơi cư trú nhất định theo sự lựa chọn của bản thân, hay có quyền tự do đi lại đến nơi mình muốn mà không gặp cản trở từ phía người khác. Nhà nước tạo điều kiện để công dân có thể lựa chọn nơi cư trú cho mình và cho gia đình.
       Công dân có quyền tự do đi đến và rời khỏi nơi mình muốn đi hoặc đến. Tuy nhiên, sự tự do lựa chọn nơi cư trú của công dân cũng phải căn cứ trên cơ sở quy định của pháp luật. Không thể vì quyền tự do lựa chọn noi cư trú của mình mà có thể vào cư trú tại những khu vực bị Nhà nước cấm như các khu quân sự, khu bảo vệ rừng phòng hộ. Nhà nước nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do cư trú, tự do đi lại để thăm dò các khu vực cấm và nghiêm cấm các cá nhân có hành vi xâm phạm quyền tự do đi lại, cư trú của công dân. Nhà nước ta đã ban hành Luật cư trú năm 2006 để bảo đảm quyền tự do cư trú trên khuôn khổ pháp luật của các cá nhân...
Người có hành vi vi phạm pháp luật có thể bị xử lý bằng cách hạn chế quyền tự do đi lại, cư trú của người đó. Việc hạn chế quyền tự do đi lại, cư trú có thể do Tòa án quyết định thông qua bản án trong đó có phần tuyên về việc cấm đi lại, cấm rời khỏi nơi cư trú hoặc cấm cư trú ở một khu vực, địa điểm nhất định trong khoảng thời gian nhất định; hay có thể do một cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật quyết định tùy theo từng trường hợp cụ thể. Việc ra các quyết định hạn chế quyền tự do đi lại, cư trú của công dân phải tuân theo các quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng hành chính, hay tố tụng hình sự.
     Như vậy thông qua nội dung của quyền này mà có thể tóm tắt những ý chính sau :
       
     Thứ nhất, tự do đi lại là điều kiện không thể thiếu đối với sự phát triển tự do của cá nhân 
     Thứ hai , nhà nước đặt giới hạn quyền tự do đi lại nhằm đảm bảo trật tự công nhưng không được làm vô hiệu nguyên tắc tự do đi lại , dựa trên các công ước đã ký kết 
   Thứ ba, quyền này không chỉ được áp dụng với các công dân mà còn với người nước ngoài đang cư trú hoặc hiện diện hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam . Việc cho phép nhập cảnh và tư cách "hợp pháp" của một người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam  phụ thuộc vào quy định pháp luật  Việt Nam . Tuy nhiên, khi một người nước ngoài đã được phép nhập cảnh vào lãnh thổ Việt Nam  người đó phải được coi là hợp pháp trong phạm vi lãnh thổ của nước Việt Nam , khi người đó có tư cách hợp pháp thì người  đó  cũng được hưởng quyền tự do đo lại tự do cư trú 
 Thứ tư cần phải được đảm bảo quyền này không chỉ bởi sự hạn chế của chính phủ mà còn từ các chủ thế khác ( Bố mẹ ngăn cản con cái hay chồng ngăn cản vợ ) 
Thứ năm quyền tự do cư trú còn bao hàm sự bảo vệ khỏi tình trạng bị bắt buộc di dời chỗ ở trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, cũng như khỏi bị  ngăn cấm không được đến hoặc sinh sống ở một khu vực nhất định trên lãnh thổ quốc gia,ngoại trừ những trường hợp cấm đã quy định tại luật 

0 nhận xét

Đăng nhận xét
Được tạo bởi Blogger.