Đối lập và đối lập trung thành
Chữ “đối
lập trung thành” (loyal opposition), từ mấy chục năm nay, được khá nhiều người
sử dụng, nhất là trong giới nghiên cứu Tây phương, khi bàn đến tiến trình vận
động dân chủ dưới các chế độ độc tài độc đảng, trong đó có Việt Nam. Nhiều
người cho thuật ngữ này có cái gì như oái oăm: Đã đối lập mà lại còn trung
thành? Nếu đã trung thành thì đối lập làm gì?
Thật ra, thuật ngữ đối lập trung thành đã xuất hiện ít nhất từ năm 1826 trong
sinh hoạt Nghị viện tại Anh, ở đó, những người thuộc phe thiểu số trong Quốc
Hội được xem là thành phần đối lập của chính phủ (do phe đa số nắm). Là đối
lập, họ chống lại một số chính sách và hoạt động của chính phủ nhưng họ vẫn
trung thành với đất nước và vẫn chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp. Danh xưng đối
lập trung thành ở đây, như vậy, không khác với cách gọi đối lập thông thường.
Nó được đặt ra chủ yếu để ngăn chận những âm mưu bôi xấu phe đối lập: Không thể
xem họ là những kẻ phản bội. Dù phê phán chính phủ gay gắt đến mấy, họ cũng vẫn
là công dân với tất cả những quyền giống mọi công dân khác. Hơn nữa, phải xem
sự phê phán của họ cũng là một thứ quyền.
Khi áp dụng vào các chế độ độc tài, như Việt Nam hiện nay, khái niệm đối lập
trung thành mang một ý nghĩa khác. Nó trở thành một hình thức đối lập khác.
Nhưng khác như thế nào?
Dưới chế độ độc tài, đối lập và đối lập trung thành khác nhau ít nhất ở bốn
điểm chính:
Thứ nhất, về tư thế, trong khi các thành phần đối lập đều nằm ngoài hệ thống
quyền lực đang nắm vai trò thống trị, những người được gọi là đối lập trung
thành đều là đảng viên và cán bộ, có khi là cán bộ cao cấp hoặc khá cao cấp,
trong hệ thống chính quyền. Ví dụ, ở Việt Nam, Nguyễn Đan Quế hay Hà Sĩ Phu là
đối lập, trong khi Phan Đình Diệu hay Trần Độ trước đây, vốn là Trung tướng và
là ủy viên Trung ương đảng, lại là đối lập trung thành.
Thứ hai, về mức độ, trong khi những người đối lập đả kích chính phủ hầu như
trên mọi phương diện, những người đối lập trung thành thường giới hạn việc phê
phán trên hai phạm vi: một là các chính sách và hai là cách thức tổ chức bộ máy
đảng và chính quyền, đặc biệt trong việc thực thi các chính sách ấy. Ví dụ, họ
phê phán phong trào cải cách ruộng đất vốn gây tang thương cho hàng chục ngàn
gia đình và phá nát không phải chỉ nền kinh tế èo uột ở giai đoạn cuối của cuộc
chiến tranh cũng như ngay sau chiến tranh (chống Pháp) mà còn phá nát cả hệ
thống đạo lý truyền thống trong gia đình cũng như làng xã Việt Nam với những cảnh
con tố cha, vợ tố chồng, làng xóm vu vạ, hành hạ và giết chóc lẫn nhau, nhưng
họ lại tránh né việc kết tội đảng và lãnh tụ đảng, những thủ phạm chính của các
tội ác ấy.
Thứ ba, về biện pháp, trong khi những người đối lập muốn thay đổi từ bên ngoài,
một cách nhanh chóng và quyết liệt, kể cả bằng bạo lực, những người đối lập
trung thành tin là cuộc vận động để thay đổi đất nước chỉ có thể thực hiện được
từ bên trong, một cách tiệm tiến, và bằng cách thuyết phục trước hết, đối với
giới lãnh đạo, và sau đó, với quần chúng.
Thứ tư, quan trọng nhất, về mục tiêu, trong khi thành phần đối lập muốn thay
đổi chế độ, những người đối lập trung thành chỉ muốn hoàn chỉnh chế độ bằng
cách giảm thiểu các sai lầm, để nó cai trị một cách hiệu quả, dân chủ và nhân
đạo hơn.
Sau khi phân biệt như trên, cần chú ý thêm một số điểm:
Thứ nhất, trên thực tế, rất khó phân biệt ranh giới thực sự giữa đối lập và đối
lập trung thành. Trung thành có thể là một sự thực nhưng cũng có thể là một
toan tính về chiến lược: một số người, tự thâm tâm, biết rõ là cần phải thay
đổi chế độ và xem việc thay đổi chế độ là mục tiêu tối hậu của họ, nhưng họ
cũng biết việc công khai hóa mục tiêu ấy là một nguy hiểm, không phải chỉ nguy
hiểm cho chính họ mà còn nguy hiểm cho cả phong trào, bởi vậy, họ chấp nhận
biện pháp có vẻ như thỏa hiệp là thay đổi từ từ, từng bước, từng bước, bắt đầu
từ chính sách và cơ chế, sau đó, cuối cùng, mới đến vấn đề thể chế.
Thứ hai, không nên quên, trong tư tưởng chính trị cũng có những sự tiến hóa:
nhiều người, thoạt đầu, chỉ muốn làm một người đối lập trung thành nhưng sau,
dần dần, hoặc bị đẩy vào thế cùng, hoặc có sự thay đổi trong nhận thức, trở
thành kẻ đối lập thực sự một cách quyết liệt và triệt để. Có thể thấy rõ sự
chuyển hướng này qua hiện tượng một số người công khai bỏ đảng: Tất cả đều xuất
phát từ sự tuyệt vọng đối với nỗ lực thay đổi từng phần và từ bên trong. Từ bỏ
đảng để được đứng ngoài, vừa giữ được sĩ khí vừa có thể đi đến cùng sự phê phán
và yêu sách.
Thứ ba, nhắm đến những mục tiêu khác nhau, nhưng đối lập và đối lập trung
thành, trong một giai đoạn nào đó, lại bổ sung cho nhau hơn là loại trừ nhau.
Đối lập có chức năng thay thế; đối lập trung thành củng cố cho nhu cầu thay thế
ấy bằng cách đưa ra những bằng chứng khó có thể chối cãi được về những sai lầm
và ung thối của chế độ. Nên lưu ý: đứng về phương diện phê phán, những tiếng
nói từ bên trong thường có sức nặng và sức mạnh hơn những tiếng nói từ bên
ngoài. Một phần, xuất phát từ kinh nghiệm trực tiếp, những tiếng nói ấy thường
cụ thể hơn, do đó, dễ thuyết phục hơn; mặt khác, nó còn có tác dụng làm phân
hóa thế lực cầm quyền, trước, phân hóa về tư tưởng, sau, phân hóa về lực lượng.
Hơn nữa, những người đối lập trung thành, ngay cả những người trung thành một
cách thành thực nhất, tuy tự đặt cho mình những giới hạn nhất định, nhưng làn
sóng dân chủ, khi đã nổi dậy, thường lại bất chấp các giới hạn ấy.
Mikhail Gorbachev, Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô, khi đưa ra chính sách
glasnost và perestroika vào giữa thập niên 1980, chỉ muốn hoàn thiện chế độ,
những tưởng, với chúng, chế độ sẽ mạnh mẽ hơn, nhưng điều ông không ngờ lại xảy
ra: cả chế độ bị sụp đổ. Mà không phải chỉ ở Nga. Nó sụp đổ trên toàn bộ Đông
Âu.
Cuối cùng, thứ tư, cũng là điều quan trọng nhất: ngay cả khi có sự khác biệt
sâu sắc giữa đối lập và đối lập trung thành, về phương diện chiến lược và từ
góc độ của những người tranh đấu cho dân chủ, tuyệt đối tránh thái độ phân hóa
giữa hai thành phần này. Sự phân hóa này chỉ tạo ra lợi thế cho nhà cầm quyền
và là một điều xa xỉ mà những lực lượng tranh đấu cho dân chủ, vốn còn non yếu,
không thể chấp nhận được.
Bởi chấp nhận là một sự dại dột.