Việt Nam giữa ý thức hệ và chủ nghĩa quốc gia
20.02.2014
Trong bài
“Trận chiến chính trong thế kỷ 21”,
tôi nêu lên một số luận điểm của các học giả Tây phương: Tất cả đều cho yếu tố
chính làm phân hóa thế giới và dẫn đến các cuộc chiến tranh, lạnh hay nóng, khốc
liệt trong thế kỷ 20 đã thuộc về dĩ vãng là ý thức hệ. Rộng hơn cả chính trị,
trong toàn bộ lãnh vực nghiên cứu nhân văn hay khoa học xã hội hiện nay, hầu
như không ai nhắc đến ý thức hệ nữa. Trước, các lý thuyết gia cho ý thức hệ là
một thứ đại tự sự hoặc siêu tự sự (grand narrative / metanarrative) và thời đại
của các siêu tự sự ấy đã qua và được thay thế bằng các tiểu tự sự. Sau, nhiều
người cho cả lý thuyết nói chung, vốn là kết tinh của các siêu tự sự ấy cũng mất
dần sức quyến rũ: Nhiều người gọi thời đại chúng ta đang sống hiện nay là thời
đại hậu-lý thuyết (posttheory).
Ở đây, Việt Nam là một ngoại lệ. Trên các diễn đàn chính thức và chính thống ở
trong nước, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định là mâu thuẫn chính
hiện nay vẫn là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, là Việt
Nam và Trung Quốc vẫn là hai nước đồng chí anh em trong khối xã hội chủ nghĩa,
là Việt Nam vẫn cương quyết đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, dù,
theo lời thú nhận của Nguyễn Phú Trọng gần đây, có khi đến tận cuối thế kỷ 21,
vẫn chưa thực hiện được!
Những quan niệm như vậy không những lạc hậu mà còn là một ảo tưởng, một ảo tưởng
lạc hậu của những kẻ lú. Trên blog này, ở một số bài, tôi có nhắc đến một ý kiến
của Benedict Anderson, trong cuốn Imagined Communities: Reflections on
the Origin and Spread of Nationalism (1983): Ông cho, với cuộc chiến tranh
giữa Việt Nam và Campuchia năm 1978 và chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc
năm 1979, chủ nghĩa quốc gia đã thay thế vai trò của ý thức hệ chính trị trong
việc quyết định các quan hệ quốc tế giữa nước này và nước khác.
Việc thay thế ấy càng hiển nhiên hơn nữa sau năm 1991, khi hệ thống xã hội chủ
nghĩa bị sụp đổ hoàn toàn ở Liên Xô và Đông Âu. Từ đó, chính chủ nghĩa quốc gia
chứ không phải là ý thức hệ chi phối (a) toàn bộ các quyết định tách rời hay gộp
chung các biên giới chung quanh mỗi nước; (b) xác định ai là công dân và ai
không phải là công dân; (c) khẳng định ngôn ngữ nào là ngôn ngữ quốc gia; và cuối
cùng, (d), khẳng định các quyền dành cho người dân thiểu số. Tất cả các cuộc
chiến tranh và xung đột ở Trung Âu và Đông Âu sau năm 1991 đều gắn liền với chủ
nghĩa quốc gia.
Ở châu Á, văn hóa hay văn minh - nói theo chữ của Samuel P. Huntington - cũng
không phải là yếu tố gây đoàn kết hay chia rẽ trên bàn cờ chính trị khu vực. Những
tranh chấp về lãnh thổ, đặc biệt là lãnh hải giữa Trung Quốc với Việt Nam, Hàn
Quốc và Nhật Bản, hay ngay cả với Philippines thời gian gần đây là một minh chứng:
Trên lý thuyết, theo cách phân chia của Huntington trong cuốn The
Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, Trung Quốc,
Hàn Quốc và Việt Nam đều có chung một nền văn minh, nền văn minh dựa trên Khổng
giáo. Giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng có rất nhiều điểm chung. Ngay cả giữa
Trung Quốc và Philippines, nhữngđiểm chung cũng không ít: Mặc dù Philippines chịu
nhiều ảnh hưởng của Tây phương, từ Tây Ban Nha đến Mỹ, ở đó Thiên Chúa giáo
đóng vai trò chủ đạo, nhưng vốn là một quốc gia đa sắc tộc, một phần không nhỏ
của Philippines có gốc rễ từ Trung Hoa và cùng với họ, ảnh hưởng của Khổng
giáo. Vậy mà họ vẫn hục hặc với nhau. Ấn Độ và Pakistan cùng chia sẻ với nhau,
hoặc toàn bộ hoặc một phần, văn minh Hồi giáo, nhưng họ vẫn đánh nhau.
Có thể nói, ở châu Á, đặc biệt ở Đông Á và Đông Nam Á, trong khi vai trò của ý
thức hệ đã thuộc về quá khứ, vai trò của “văn minh” vẫn chưa nổi lên và chưa có
ý nghĩa gì đáng kể, mối quan hệ quốc tế giữa các nước vẫn bị chi phối một cách
mạnh mẽ bởi tinh thần quốc gia: Nước nào cũng muốn khẳng định bản sắc của mình
dựa trên lịch sử và nước nào cũng nhắm đến mục tiêu có lợi cho chính mình; ở nước
nào chính phủ cũng giương cao ngọn cờ quốc gia chủ nghĩa để tập hợp quần chúng
và tạo thành sức mạnh.
Chỉ có ở Việt Nam là khác.
Trong hơn một thập niên vừa qua, không phải chính phủ mà là những người đối lập
hoặc độc lập với chính phủ mới là những kẻ hô to khẩu hiệu quốc gia nhiều nhất.
Không phải chính phủ mà là những người ly khai hay các nhà báo và các blogger bị
chính phủ cấm đoán hay trấn áp mới là những người hay bàn đến vấn đề độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nhất. Không phải chính phủ mà những người dân thấp
cổ bé miệng đứng ra tổ chức các cuộc xuống đường biểu tình để, nhân danh chủ
nghĩa quốc gia, chống lại âm mưu bành trướng của Trung Quốc.
Nói một cách tóm tắt, ở Việt Nam hiện nay, có hai xu hướng đối lập nhau: nhà cầm
quyền thì đề cao ý thức hệ, tiếp tục nhìn thế giới qua lăng kính ý thức hệ xưa
cũ, trong khi đó, dân chúng, hoặc ít nhất một bộ phận càng lúc càng lớn của
dân chúng, lại đề cao chủ nghĩa quốc gia, xem chủ nghĩa quốc gia như một lý tưởng
để tranh đấu, trước hết, chống lại chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc.
Tính chất đối lập ấy có thể được nhìn thấy rõ qua các cuộc biểu tình chống
Trung Quốc trong gần một thập niên vừa qua: Trong khi dân chúng xuống đường biểu
tình chống Trung Quốc thì công an, theo lệnh của nhà nước, lại trấn áp một cách
tàn bạo. Không những trấn áp trong các cuộc biểu tình với những dùi cui, cùi
chõ và đế giày mà còn trấn áp sau các cuộc biểu tình với những sự vu khống và
những bản án thô bỉ căn cứ vào tội danh “trốn thuế” hay “hai cái bao cao su đã
qua sử dụng”.
Tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại cứ khăng khăng bám víu vào cái ý thức hệ cũ
kỹ như vậy để nhắm mắt trước nguy cơ lấn chiếm của Trung Quốc và sẵn sàng đạp
vào mặt dân chúng như vậy?
Lý do tương đối dễ hiểu: Họ sợ Trung Quốc hơn sợ dân.
Một số nhà báo nhiệt tình ở trong nước hy vọng một ngày nào đó họ có thể làm thức
tỉnh giới lãnh đạo để giới lãnh đạo nhận thức được tính chất trầm trọng của
nguy cơ bị Hán hóa, từ đó, biết sử dụng ngọn cờ quốc gia chủ nghĩa để đoàn kết
mọi người, hình thành một trận tuyến chung bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc
gia.
Tôi không tin và cũng không mong chuyện ấy xảy ra sớm. Tôi biết nhà cầm quyền
Việt Nam hiện nay sẽ không bao giờ công khai lên tiếng chống Trung Quốc cho đến
khi nào họ đối diện với nguy cơ bị dân chúng Việt Nam lật đổ. Tất cả các nhà độc
tài đều biết cách sử dụng chiến tranh, nhất là chiến tranh chống ngoại xâm, dù
một cách vờ vĩnh, để đoàn kết dân chúng và để có cớ trấn áp những người đối lập
một cách có… chính nghĩa (nhân danh an ninh quốc gia!)
Trong tương lai, khi nhà cầm quyền Việt Nam mạnh bạo lên tiếng chống Trung
Quốc, tôi không biết họ có chống được hay không; tôi chỉ biết chắc một điều: Họa
độc tài sẽ kéo dài thêm một thời gian nữa.