Người CS có thể cải sửa, chế độ CS thì không
Từ lâu một
số người Việt quốc gia chống cộng theo khuynh hướng bảo thủ, cực đoan, thường
đưa những lời tuyên bố của các lãnh tụ cộng sản “phản tỉnh” như một dẫn chứng
cho một định kiến rằng “Cộng sản không thể cải sửa mà chỉ bị hủy diệt”.
Thế rồi căn cứ trên định kiến này đưa ra và thực hiện “chủ trương giải thể đảng cộng sản Việt
Nam, bằng lật đổ tiêu diệt đảng và chê độ cộng sản Việt Nam, chứ không có cái
chuyện hòa hợp, hòa giải,”Đối thoại” hay "đối luận" với đảng cộng sản
Việt Nam…”.Nhưng nếu có ai hỏi họ làm thế nào thực hiện chủ trương
này khi thực tế đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã và đang nắm quyền suốt 38 năm
qua, có chính quyền, có lãnh thổ, có quân đội công an và có tư thế quốc tế là một
quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc?- Tất nhiên họ sẽ ú ớ không trả lời được và lập
tức phản ứng theo kiểu “cả vú lấp miệng em”, hô hoán tấn công kẻ đã giám hỏi họ,
bằng cách chụp nón cối “"hòa hợp hòa giải' lên dầu và còn vu khống là “nhận tiền của Việt cộng” để
thực hiện cái gọi là “Nghị Quyết 36 của đảng CSVN”, có khi sử dụng mọi ngôn từ
thiếu văn hóa để nhục mạ người đã đặt câu hỏi với họ.
Định kiến “Cộng sản không thể cải sửa mà chỉ bị hủy diệt” là một võ đoán mang
tính cực đoan, có phần đúng và có phần sai: Đúng là chế độ cộng sản, bao gồm cơ
chế đảng và bộ máy nhà nước của chế độ cộng sản là “không thể cải sửa mà chỉ bị
hủy diệt hay thay thế”. Nhưng sai là “những con người cộng sản thì hoàn toàn có
thể cải sửa, không thể hủy diệt được”.
Thật vậy, vì chế độ cộng sản (hay
chế độ xã hội chủ nghĩa)là một mô hình chế độ chính trị không thể cải
sửa được sau một thời gian vận dụng vào thực tiễn,nên các “chế độ độc đảng, độc
tài toàn trị cộng sản” ở Liên Xô cũ và ở các nước Đông Âu mới bị tiêu diệt và
được thay thế bằng các “chế độ đa đảng, dân chủ pháp trị”. Thế nhưng đối với
các cán bộ đảng viên cộng sản lớn bé ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũng như Việt
Nam bao lâu nay, thì hoàn toàn có thể cải sửa cách này hay cách khác. Chẳng hạn,
cải sửa một cách tự giác bằng sự “phản tỉnh” từ nhận thức cá nhân (thấy
được những sai lầm quá khứ khi vào đảng, theo đảng) và thực tiễn
khách quan (sự thất bại
trong việc thực hiện chủ nghĩa xã hội theo lý tưởng công sản, với những hậu quả
tai hại nhiều mặt, lâu dài cho nhân dân, dân tộc và đất nước…).Vì
những con người cộng sản không phải là gỗ đá, cũng là những con người biết nhận
thức suy tư , đã đam mê theo một lý tưởng nghĩ rằng cao đẹp, dù thực chất cũng
như thực tế chỉ là “không tưởng” (lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, dù cao đẹp nhưng không thể thực hiện được).Vì
có nhận thức và suy tư, nên cũng biết phân biệt đúng sai, phải trái để “phản tỉnh”
và “điều chỉnh” hành động của mình sao cho thích hợp.Tất nhiên có người cộng sản
phản tỉnh sớm hay trễ, hoặc đã phản tỉnh song còn giấu mặt vì quyền lợi cá nhân
và tập đoàn thống trị nên ngoan cố bám lấy cơ chế, không chịu chuyển đổi chế độ
cộng sản. Đó là tình cảnh của hầu hết các đảng viên đảng CSVN hiện nay dù “đã
phản tỉnh” về mặt nhận thức (phản
tỉnh nửa vời) song vẫn “chưa giám công khai nói lên sự phản tỉnh”bằng
hành động cụ thể của mình (Phản
tỉnh hoàn toàn).
Điển hình là những lãnh tụ cộng sản hàng đầu của Nga (Liên Xô cũ) và môt số nước
cộng sản Đông Âu sau khi “Phản tỉnh” đã đưa ra những nhận định chung, cô đọng từ
kinh nghiệm quá khứ đã lỡ tin vào lý tưởng cộng sản và làm theo cơ chế của chế
độ cộng sản là “không thể cải sửa”, còn “những con người cộng sản,thì hoàn toàn
có thể cải sửa”. Vì chính họ là hiện thân của sự cải sửa, từ những đảng viên cộng
sản cao cấp đã “Tự cải sửa” góp phần làm tiêu vong chế độ cộng sản nơi đất nước
của họ.
Tại Liên Xô trước đây, sau khi nỗ lực cá nhân Ông Gorbachev và phe cải cách
trong đảng Cộng Sản Liên Xô thực hiện chương trình cải tổ “glasnost” và cởi mở
“Perestroika” cứu nguy chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô bị thất bại đã phải chuyển
đổi qua chế độ dân chủ pháp trị đa đảng.(Tiếc
rằng tại Việt Nam sau khi đảng CSVN thực hiện chính sách đổi mới bị thất bại
hoàn toàn (1986-1995) vẫn không dám công khai chuyển đổi qua chế độ dân chủ
pháp trị đa đảng như Liên Xô, mà vẫn giữa cái vỏ “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa”
trong khi thực tế không phải như vậy. Chúng tôi đã có lần viết đó chẳng khác gì
cách làm ăn của gian thương “treo đầu dê bán thịt chó”). Ông Mikhail Gorbachov, là Tổng bí thứ
cuối cùng của đảng Cộng Sản Liên Xô trong chế độ độ độc tài toàn trị Liên Xô (Liên
Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết), và là vị Tổng Thống đầu
tiên trong chế độ Cộng Hòa Liên Bang Nga hình thành sau khi chế độ cộng sản
Liên Xô sụp đổ. Chính Ông Mikhail Gorbachev là một trong những lãnh tụ hàng đầu
Đảng và Nhà nước Liên Xô đã “Phản tỉnh”, góp phần quyết định cho sự chuyển đổi
từ chế độ độc tài toàn trị Liên Xô qua chế độ dân chủ pháp trị Cộng Hòa Liên
Bang Nga ngày nay. Ông nói: “Tôi
đã bỏ quá nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận
rằng:Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá…”( I have
devoted half of my life for communism.Today, I am sad to say that The Communist
Party only spreads propaganda and deceives…).
Ông Boris Yeltsin, một đảng viên cộng sản “phản tỉnh”, kế nhiệm Ông Mikhail Gorbachev
là vị Thổng thống thứ hai của nước Nga dân chủ thì nói “Cộng sản không thể nào sửa chữa, chúng
phải bị đào thải” (Communists are incurable, they must be
eradicated…)
Tổng thống Nga đương nhiệm Vladimir Putin, từng cầm đầu KGB cơ quan tình báo
trung ương Liên Xô, cũng từng tuyên bố “Ai
tin cộng sản, là không có cái đầu. Ai làm theo lời của cộng sản, là không có
trái tim.( He who
believes the communists has no brain. He who follows the communists has no
heart).
Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Nam Tư Milovan Djilas cũng đã từng tuyên bố:“20 tuổi mà không theo cộng sản, là
không có trái tim.40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản, là không có cái đầu”
(At 20, if you are not a communist, you are heartless.At 40, if you don’t
abandon communism, you are brainless…).
Tất cả những lời tuyên bố được trích dẫn trên đây của các lãnh tụ cộng sản hàng
đầu của các đảng cộng sản đều có ý nghĩa chung là phê phán, lên án các chế độ
thực hiện chủ nghĩa cộng sản về mặt cơ cấu tổ chức điều hành, chủ trương chính
sách cai trị đã gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện, di hại lâu dài cho nhân
dân và đất nước. Tuy nhiên cung cách chung của các lãnh tụ cộng sản này đều làm
ra vẻ đứng ngoài cơ cấu đó để phê phán, lên án và làm như họ cũng như các đảng
viên cộng sản sau khi “phản tỉnh” không có trách nhiệm gì về những hậu quả mà bộ
máy cơ cấu đảng và nhà nước gây ra cho nhân dân và đất nước (có lẽ đây là một tính chất cao ngạo
chung của những đảng viên CS khó cải sửa,còn tồn tại như một cá tính dù họ đã
phản tỉnh thực sự song vẫn tìm cách trốn tránh trách nhiệm quá khứ). Thậm chí họ không dám công khai nhận lỗi
hay tỏ ra đôi chút ân hận gì về quá khứ vào đảng, theo đảng để thực hiện chủ
nghĩa cộng sản không tưởng, mà còn tìm cách biện minh cho việc tham dự vào guồng
may cơ cấu đảng và nhà nước CS trong quá khứ một cách tự hào, như một “sự sai lầm
chính đáng” mang tính tất yếu, không thể làm khác trước hấp lực của chủ nghĩa cộng
sản có tính mê hoặc thời tuổi trẻ vốn đầy ắp những hoài bão ước mơ về một xã hội
công bằng “không còn cảnh người áp bức, bóc lột người”, xã hội “Xã hội chủ
nghĩa”, trong đó mọi người cư xử với nhau trong tình hữu ái, một xã hội tuy còn
giai cấp, nhưng mọi người lao động theo năng lực hưởng theo sức lao động bỏ ra
để tiến đến một xã hội viên mãn trong viễn tưởng: “xã hội cộng sản” hay “Thiên
đường cộng sản”, không còn giai cấp, mọi người lao động theo năng lực và hưởng
theo nhu cầu. Nghĩa là một xã hội tài hóa dư thừa thỏa mãn được mọi như cầu vật
chất cũng như tình thần của nhân dân, không còn bộ máy Nhà nước (công
cụ áp bức của giai cấp thống trị) mọi người lao động tự giác, guồng
máy xã hội vận hành tự động…(!?!?).
Tương tự tại Việt Nam, một số đảng viên cộng sản sau khi “phản tỉnh” vẫn tự biện
minh theo kiểu cao ngạo, không tỏ ra hối hận vì những sai lầm quá khứ, không
chia xẻ trách nhiệm về những hậu quả do đảng và chế độ cộng sản Việt Nam gây ra
trong đó có phần tham gia của họ.
Nhận định nêu trên mọi người có thể kiểm chứng qua một số những bài viết, lời
nói, hành động của một số những khuôn mặt “phản tỉnh” nổi bật trọng thời gia
qua. Điển hình gần nhất là cố cựu đảng viên cộng sản Lê Hiếu Đằng, trong bài
“Viết trong những ngày nằm bịnh” tiểu mục “1. Vì sao tôi đi kháng chiến, vào
ĐCS Việt Nam?” cũng đã biện minh cho việc theo Việt cộng là vì “khát vọng xây dựng một xã hội bác ái, tự do, bình đẳng…”; vì “Chủ
nghĩa Marx, CNXH, CNCS chẳng những lôi cuốn, làm say mê nhiều thế hệ trí thức
phương Tây mà ở Việt Nam cũng vậy”; Vì “ lòng
yêu nước, ý chí chống xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ cho Tổ quốc để xây
dựng một xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân, nông dân, người lao động,
những người hi sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc sống ấm no, hạnh phúc đã
thôi thúc chúng tôi lên đường.”. Thế
nhưng toàn bài viết tuyệt nhiên không thấy ông “phản tỉnh” Lê Hiếu Đằng tỏ ra
ân hận,nhận sai lầm quá khứ khi đi theo Việt cộng và nhận chia xẻ trách nhiệm về
những hậu quả tàn hại nhiều mặt, di hại lâu dài cho nhân dân, đất nước và dân tộc
do đảng cộng sản Việt Nam gây ra trong hàng nửa thế kỷ qua.
Nói tóm lại phải hiểu cho đúng ý nghĩa những câu nói của những lãnh tụ cộng sản
phản tỉnh để có nhận thức đúng đắn rằng cơ cấu tổ chức nhân sự điều hành và các
chủ trương chính sách cai trị của đảng cộng sản nói chung và đảng cộng sản Việt
Nam nói riêng (chứ không phải
những con người cộng sản) là “không thể cải sửa mà chỉ bị hủy diệt
hay thay thế”. Nhưng đối với những con người cộng sản (đảng viên hay quần chúng tin theo chủ
nghĩa cộng sản) thỉ hoàn toàn có thể cải sửa tự giác bằng sự “phản
tỉnh” (qua thời gian và thực tế khách quan nhận thức được những
cái sai trong quá khứ đi theo và làm theo đảng CS) để tự “Điều chỉnh” (bỏ
cái sai làm theo cái đúng).Đó là tình cảnh thực tế tại Việt Nam mà
người Việt quốc gia chân chính chống cộng vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam
cần nhận thức đúng đắn để điều chỉnh hành động và phương thức chống cộng cá
nhân cũng như đòan thể một cách phù hợp để có hiệu quả, có lợi cho dân, cho nước.
Các bài viết được đăng tải với
sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính
phủ Hoa Kỳ.
Thiện Ý
nguyên luật sư tại Sài Gòn trước 1975, hiện là Chủ tịch Câu Lạc bộ Luật khoa Việt
Nam ở Houston.