Khái niệm 'chủ nghĩa xã hội' và 'chủ nghĩa cộng sản' qua Durkheim
Nhập nhằng hai khái niệm 'chủ nghĩa cộng sản' và chủ nghĩa xã hội'
Như đã trình bày ở phần trước, Durkheim cho rằng để nghiên cứu
lịch sử của chủ nghĩa xã hội thì cần hiểu chính xác định nghĩa của khái niệm
này. Bằng cách coi chủ nghĩa xã hội là một đối tượng của khoa học thay vì là
một sản phẩm của khoa học, ông đã đi đến một định nghĩa diễn đạt những đặc điểm
có chung ở mọi học thuyết xã hội chủ nghĩa, giúp ta phát hiện đâu là biểu hiện
của chủ nghĩa xã hội mỗi khi bắt gặp (nhớ lại: đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
là sự kết nối các hoạt động kinh tế với nhà nước,
hay chính xác hơn là ‘trung tâm tư duy và điều hành của xã hội’). Bước
tiếp theo là trả lời câu hỏi: chủ nghĩa này xuất hiện ở thời điểm nào trong
lịch sử?
Theo Durkheim, khi trả lời câu hỏi này thì nhiều người đẩy nguồn
gốc của chủ nghĩa xã hội tới tận thời nguyên thủy sơ khai của tiến trình lịch
sử, xa xưa như loài người. Họ tìm về những tư tưởng của Thomas More (tác
giả của cuốn ‘Xã hội không tưởng’/’Utopia’ xuất bản năm 1518), Tommaso
Campanella (tác giả của ‘Thành phố mặt trời’/ ‘City of the Sun’ xuất bản năm
1621), xa hơn nữa là tác phẩm ‘Nền Cộng Hòa’ của Plato (xuất hiện khoảng năm
380 TCN), thậm chí còn cho rằng những xã hội công xã nguyên thủy sơ khai với
nguyên lý ‘cộng sản’ là tiền thân của ‘chủ nghĩa xã hội’. Ông cho rằng cả những
người ủng hộ hay phản đối thuyết chủ nghĩa xã hội đều hay lẫn lộn hai khái niệm
‘chủ nghĩa cộng sản’ và ‘chủ nghĩa xã hội’.
Trong giáo trình ‘Chủ nghĩa xã hội khoa học’ (dành cho các
trường đại học và cao đẳng) do Bộ Giáo Dục và Đào tạo biên soạn năm 2004, hai
thuật ngữ này được hiểu đồng nhất như sau:
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin đã sử dụng hai thuật
ngữ: “chủ nghĩa xã hội khoa học” hoặc “chủ nghĩa cộng sản khoa học” cơ bản là
thống nhất về ý nghĩa. Hiện nay, chúng ta dùng thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội khoa
học”. (tr.2)
Vậy với Durkheim, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản: đó là
hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, hay chỉ là một? Bằng phương pháp lịch sử-so
sánh, ông lập luận rằng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là hai lý thuyết
hoàn toàn khác nhau cả ở hình thức lẫn bản chất.
Sự khác nhau về hình thức của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã
hội
Durkheim nhận thấy hai lý thuyết này khác nhau từ tần suất xuất
hiện của chúng trong lịch sử, đặc điểm và động cơ của những lý thuyết gia đề
xướng các chủ thuyết này, và hình thức truyền tải của chúng.
Thứ nhất, những tư tưởng về chủ nghĩa cộng sản xuất hiện rất
thưa thớt, cách nhau rất xa trong lịch sử. Từ Plato tới Thomas More là gần 10
thế kỉ. Thomas More viết ‘Xã hội không tưởng’vào năm 1518, nhưng phải tới gần
100 năm sau mới có ‘Thành phố mặt trời’ của Tomasso Campanella. Trong khi đó
chủ nghĩa xã hội lại có quá trình phát triển khác hẳn. Chủ nghĩa xã hội lại gắn
với một xã hội có cấu trúc phát triển ở một mức độ nhất định, nó xuất hiện như
là một xu hướng xã hội liên tục và sôi động. Durkheim lưu ý rằng thuật ngữ ‘chủ
nghĩa xã hội’ mới chỉ xuất hiện lần đầu vào năm 1835, do Robert Owen tạo ra.
Trong nửa đầu thế kỉ 19, các lý thuyết mang tên chủ nghĩa này xuất hiện liên
tục, và sau 1850 thì còn mạnh mẽ hơn. Không những trường phái này kế tiếp
trường phái khác mà chúng còn xuất hiện đồng thời, như một cách phản hồi một áp
lực, là chứng cứ rằng chúng cùng phản hồi một nhu cầu tập thể nào đó. Ví dụ,
chúng ta thấy có Saint-Simon và Fourier ở Pháp, Robert Owen ở Anh.
Thứ hai, tác giả của lý thuyết cộng sản thường là những triết
gia xuất hiện thưa thớt trong lịch sử. Họ thường đặt những câu hỏi về luân lý
nói chung khi khép mình trong thư phòng. Nguồn gốc của sự ích kỉ và vô đạo đức
là gì? Đây là câu hỏi bất biến và các nhà tư tưởng có quyền tự do đặt ra và tự
tìm câu trả lời cho mình. Tư tưởng của họ thường phản ánh tính cách con người
họ, hầu như không phản ánh thực trạng xã hội mà họ đang sống. Trái lại, các lý
thuyết gia xã hội chủ nghĩa thường là những con người hành động chỉ tư duy nhằm
để giảm đi nỗi đau mà họ cảm nhận được xung quanh. Họ là những người thiên về
hành động.
Thứ ba, các lý thuyết gia cộng sản thường thể hiện quan điểm của
mình ở hình thức hư cấu, mang tính nghệ thuật và biểu cảm. Tác phẩm của họ nói
về những quốc gia chỉ tồn tại trong tưởng tượng, đứng ngoài lịch sử, và nội
dung thường phản ánh rất ít thực trạng xã hội. Vấn đề mà họ đặt ra không nhằm
đề giải quyết những vấn đề thực tiễn mà nhằm để thỏa mãn trò chơi tư duy nội
tâm của tác giả. Ví dụ, câu hỏi về sự ích kỉ (egoism) là câu hỏi bất biến về
bản chất con người. Nó là căn bệnh trầm kha của nhân loại, và chỉ biến
mất nếu loài người biến mất mà thôi. Do vậy, khi nêu lên câu hỏi thì cũng đồng
nghĩa với việc đặt vấn đề này ra ngoài xã hội cụ thể. Trái lại, những học
thuyết xã hội chủ nghĩa lại không mang tính nghệ thuật hay biểu đạt vì tác giả
của chúng mong muốn những kết luận thực tiễn. Các lý thuyết gia xã hội chủ
nghĩa tư duy không phải với cảm xúc riêng tư mà bằng những nỗi đau của xã hội, và
họ mong muốn những tư tưởng đó phải được hiện thực hóa. Vấn đề là, tình trạng
xã hội được phản ánh nơi những lý thuyết này quá mới mẻ và trầm trọng và không
thể ngay lập tức chữa trị được. Nói cách khác, con người chưa tìm cách thích
nghi được với những điều kiện hiện đại. Đó không phải là căn bệnh mãn tính. Tuy
vậy, dù chưa tìm ra phương thuốc điều trị, các nhà xã hội chủ nghĩa luôn đòi
hỏi nó một cách dai dẳng.
Sự trái ngược về bản chất giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa
xã hội
Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội trái ngược nhau về bản
chất: xã hội cộng sản loại trừ chức năng kinh tế khỏi đời
sống xã hội, trong khi xã hội xã hội chủ nghĩa lại hòa nhập nó vào cộng đồng,
và chính xu hướng này là cái định nghĩa nó. Ở mô hình cộng sản, nhà
nước chỉ đóng vai trò điều hòa luân lý, và chỉ tồn tại nếu nó tách khỏi đời
sống kinh tế. Ở mô hình xã hội chủ nghĩa, nhà nước làm cầu nối giữa những mối
liên hệ công nghiệp và thương mại.
Với lý thuyết cộng sản, cả Plato, More hay Campanella đều coi
kinh tế, vật chất là phản xã hội, là nguồn gốc của sự suy đồi đạo đức, do vậy
cần phải được tách biệt triệt để với trung tâm của đời sống. Ví dụ, thành phố
mà Plato hình dung bao gồm 2 phần riêng biệt: một phần dành cho tầng lớp lao
động và thợ thủ công; một phần dành cho các quan tòa và các chiến binh. Những
chiến binh có nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng của cộng đồng, còn các quan tòa thì
đảm bảo trật tự đời sống trong xã hội. Hai bộ phận này cấu thành nhà nước, bởi
chỉ có họ mới có quyền hành động nhân danh cộng đồng. Trái lại, những người lao
động và thợ thủ công thì có nhiệm vụ bảo đảm cái dạ dày của xã hội. Nguyên lý
cơ bản trong thuyết chính trị của Plato là tầng lớp làm kinh tế thấp kém này
phải được tách biệt triệt để với hai tầng lớp kia. Nói cách khác, đơn vị kinh
tế bị đặt ra ngoài phạm vi nhà nước, không có mối liên hệ gì với nó. Ngược lại,
những chiến binh và quan tòa cũng hoàn toàn xa lại với đời sống kinh tế. Họ
không được phép tham gia cũng không được quan tâm tới những gì xảy ra ở đó. Bản
thân họ cũng bị cấm không được sở hữu bất kì thứ gì; họ không có quyền tư hữu
vì quyền này chỉ dành cho những người lao động. Ngay từ thuở thơ ấu, chiến binh
và quan tòa đã được huấn luyện phải khinh ghét đời sống xa xỉ vật chất, nhưng
họ luôn đảm bảo được có những nhu yếu phẩm đủ để tồn tại. Để hai thành phần này
của thành bang có sự tách biệt triệt để nhất, họ buộc phải sống càng xa nhau
càng tốt. Như vậy, nếu chủ nghĩa xã hội đặt đời sống kinh tế vào trung tâm của
xã hội, thì trái lại chủ nghĩa cộng sản kiểu Plato lại đặt nó ở bên lề cộng
đồng, vì Plato tin rằng của cải và những gì liên quan tới nó đánh thức sự ích
kỉ của con người, khiến các công dân tấn công nhau và tạo ra những mâu thuẫn
làm đảo lộn trật tự xã hội.
Khác với Plato, More không chấp nhận sự tồn tại của giai cấp
trong xã hội. Mọi công dân đều tham gia vào đời sống cộng đồng; ai cũng có
quyền bầu cử các nhà lập pháp đồng thời tất cả đều có quyền được ứng cử. Tương
tự, ai cũng phải làm việc và đóng góp vật chất vào xã hội với tư cách là nông
dân hoặc thợ cơ khí. Tuy nhiên, giống Plato, More tuân thủ theo đúng nguyên lý
tách biệt triệt để đời sống kinh tế với đời sống cộng đồng. Trong khi Plato
tách biệt hai hoạt động kinh tế và chính trị bằng không gian, thì More làm như
vậy thông qua thời gian: đời sống mỗi công dân được chia thành hai phần riêng
biệt: một phần dành cho lao động nông thôn và công nghiệp; phần kia dành cho
những vấn đề công cộng.Nếu Plato ngăn những người quản lý nhà nước tham gia vào
đời sống kinh tế bằng cách không cho họ quyền sở hữu thì More mở rộng sự ngăn
cấm này tới tất cả công dân, vì trong hệ thống của ông mọi công dân đều tham
gia vào quản lý nhà nước.
Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội còn trái ngược nhau ở mối
quan hệ giữa sản xuất và tiêu thụ. Trong xã hội cộng sản, người lao động không
được giành sản phẩm lao động về cho riêng mình mà phải cùng chia sẻ việc tiêu
thụ sản phẩm ấy với cộng đồng. Anh muốn làm gì thì làm, và nhất định không được
phép lười biếng, nhưng cái anh làm ra phải do tập thể quyết định và cùng tiêu
thụ. Với xã hội xã hội chủ nghĩa, trong khi hoạt động công nghiệp và thương mại
phải được xã hội tổ chức, thì sự tiêu thụ là chuyện riêng tư. Durkheim khẳng
định không có học thuyết xã hội chủ nghĩa nào lại khước từ
quyền sở hữu và sử dụng mà cá nhân đoạt được một cách hợp pháp.
Như vậy, nguyên lý cộng sản lấy một nguyên lý đạo đức trừu tượng
làm cơ sở thẩm quyền để coi tư hữu là nguồn gốc của sự ích kỉ và sự suy đồi đạo
đức. Nhưng nguyên lý này đúng ở mọi nơi, mọi lúc trong lịch sử, dù ở xã hội sơ
khai hay xã hội công nghiệp phát triển. Nó không hướng tới một thực tế kinh tế
nào, bởi vì thể chế về tài sản là thể chế luật pháp và luân lý, tuy có ảnh
hưởng tới đời sống kinh tế nhưng không là một phần của đời sống này. Chủ nghĩa
xã hội, trái lại, không hướng tới hậu quả về mặt đạo đức của sự tư hữu nói
chung, mà hướng tới hiệu quả của cách tổ chức kinh tế nhất định nào đó như chủ
nghĩa xã hội. Hai vấn đề này hoàn toàn khác nhau: một bên phán xét giá trị đạo
đức của vật chất một cách trừu tượng; Bên còn lại đắn đo liệu loại hình thương
mại hay công nghiệp nhất định có phù hợp với những điều kiện tồn tại của một xã
hội hay không, và liệu nó có bình thường, lành mạnh hay không.
Durkheim cho rằng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội có một
điểm thoạt nhìn thì giống nhau: đó là cái xu hướng coi xã hội có uy quyền lớn
hơn mỗi cá nhân. Cả hai đều lo sợ mối nguy từ lợi ích tư lợi có thể gây ra đối
với lợi ích cộng đồng. Cả hai đều đối lập với chủ nghĩa cá nhân triệt để và
thái quá. Chính vì hai điều này khiến người ta hay nhầm lẫn đánh đồng hai khái
niệm này làm một. Nhưng ngay ở sự giống nhau mơ hồ này vẫn tồn tại sự khác nhau
căn bản: Một bên coi tất cả những gì tư hữu là phản xã hội, trong khi bên còn
lại cho rằng sự chiếm đoạt tư nhân về các tư liệu sản xuất lớn chỉ nguy hiểm ở
một giai đoạn nhất định trong lịch sử. Bên cạnh đó, động cơ của hai lý thuyết
cũng khác nhau: động cơ của chủ nghĩa cộng sản mang tính đạo đức và bất biến,
trong khi đó chủ nghĩa xã hội chú ý tới một loại hình kinh tế cụ thể (nền công
nghiệp bước đầu quy mô lớn nhưng còn phân tán). Một đằng cho rằng cần phải loại
bỏ tư hữu vì nó là nguồn gốc của sự vô đạo đức, trong khi ở lý thuyết còn lại
cho rằng nhà nước không thể hoàn toàn dửng dưng để cho ngành công nghiệp và
thương mại khổng lồ vận hành tràn lan bởi chúng có thể gây ảnh hưởng lên toàn
xã hội (như trường hợp nhà tư bản bóc lột công nhân mà nhà nước không biết tới
để can thiệp). Kết luận của hai lý thuyết này cũng rất khác nhau: một lý thuyết
chỉ nhìn thấy giải pháp bằng cách trấn áp, dập tắt những lợi ích kinh tế, còn
lý thuyết kia thì quan tâm tới việc xã hội hóa hoạt động kinh tế.
Như vậy, để giải thích chủ nghĩa xã hội và đi tìm lịch sử của
nó, ta không cần đi xa về nguồn gốc cộng sản. Coi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản là một cũng có nghĩa là đánh đồng những thứ có bản chất trái ngược
nhau, và sẽ dẫn tới mở rộng ý nghĩa của nó đối với những lý thuyết về luân lý,
chính trị, giáo dục, kinh tế coi lợi ích xã hội đi trước lợi ích cá nhân – và
như vậy kết quả là thuật ngữ này sẽ mất đi ý nghĩa cụ thể. Đặc biệt, Durkheim
phát biểu rằng:
‘Đúng là ta có thể nghĩ rằng các nhà tư tưởng của lý thuyết cộng
sản đã hình dung ra trong trí tưởng tượng của mình những kết quả tương lai của
sự phát triển lịch sử; rằng bằng tư duy của mình họ mường tượng được một xã hội
khác với xã hội trước mắt họ (và chỉ có thể được hiện thực hóa sau này trong
lịch sử). Nhưng chấp nhận khả năng đó không chỉ phi khoa học, bởi những dự đoán
đó được tạo ra từ hư vô. Có thể các lý thuyết gia cộng sản không hướng tư duy
của mình tới tương lai, mà hướng về quá khứ. Như vậy họ quay ngược lại thời
gian. Chính vì thế mà xã hội của Platon không là gì khác là sự tái bản của mô
hình nhà nước Sparta, một nhà nước cổ đại nhất của Hi Lạp. Và từ điểm này có
thể thấy, những người thừa kế Plato chỉ nhại lại người thầy của mình. Mô hình mà
họ đề xuất là mô hình của người nguyên thủy’ (tr.28).
Đôi lời kết
Những nghiên cứu của Durkheim về nhiều vấn đề xã hội thường luôn
khẳng định sức mạnh không thể coi thường của ‘sức mạnh tập thể’. Trong bầu
không khí sôi sục của đám đông, ví dụ như trong các bộ lạc nơi xã hội nguyên
thủy, một vật tầm thường như chiếc răng cá sấu, hòn đá cuội, hay một con vật
tầm thường cũng có thể trở thành ‘vật tổ’ thiêng liêng, thành ‘cái thiêng’ được
cả xã hội bộ lạc đó thờ tụng và bảo vệ như chính mạng sống của họ. Niềm tin tôn
giáo thường ngự trị vào những khoảnh khắc ấy. Nhưng ranh giới giữa ‘cái thiêng’
và ‘cái phàm’ cũng mong manh – do lịch sử và do sự giao tranh giữa hai thế lực
của niềm tin huyền thoại và niềm tin nơi lý trí – hai xu hướng mà Durkheim
khẳng định luôn tồn tại trong lòng mọi xã hội.
‘Chủ nghĩa cộng sản’ và ‘chủ nghĩa xã hội’ đều đơn thuần là hai
khái niệm. Nếu xét về mặt khái niệm, chúng hoàn toàn trung tính. Nhưng có phải
khi gắn chúng vào ‘niềm tin’, chúng lại bất giác trở thành đối tượng của việc
đánh giá giữa ‘thiêng’ và ‘phàm’? Vấn đề là, ‘niềm tin’ nào?
0 nhận xét