Đồng minh với Mỹ
Nguyễn Hưng Quốc
Quốc gia duy nhất có thể giúp đỡ Việt Nam trước sự đe dọa của Trung Quốc không ai khác hơn là Mỹ. |
Các sự kiện dồn dập xảy ra giữa
Việt Nam với Mỹ thời gian vừa qua, từ chuyến thăm Mỹ của Phạm Quang Nghị, ủy
viên Bộ chính trị đến chuyến thăm Việt Nam của hai thượng nghị sĩ Mỹ, John
McCain và Sheldon Whitehouse, cho thấy triển vọng nâng cấp quan hệ giữa hai
nước từ hợp tác toàn diện đến đối tác chiến lược có vẻ như gần kề. Ba sự kiện
chính có thể sẽ xảy ra như là hệ quả của việc nâng cấp này là: Một, hiệp định
thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) có thể sẽ được ký kết sớm; hai, Việt Nam
có thể sẽ được phép mua các loại vũ khí sát thương của Mỹ; và ba, quan trọng
nhất, Mỹ sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong việc giúp đỡ Việt Nam đối phó với
những hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông.
Nếu tất cả các điều trên được
diễn ra một cách suôn sẻ thì quả là một việc đáng mừng cho Việt Nam. Lý do đơn
giản là Việt Nam không thể chống cự lại Trung Quốc một cách có hiệu quả nếu
không có, một, vũ khí tối tân, và hai, sự giúp đỡ từ Mỹ.
Về vũ khí, lâu nay Việt Nam chủ
yếu mua từ Nga, nhưng ở đây lại có vấn đề: Nga không phải chỉ bán vũ khí cho
Việt Nam mà còn bán cho cả Trung Quốc nữa. Hậu quả là những gì Việt Nam có,
Trung Quốc cũng đều có. Hơn nữa, nhờ giàu hơn, Trung Quốc có thể mua vũ khí từ
Nga với số lượng lớn hơn hẳn Việt Nam. Đó là chưa kể, sau mấy chục năm tập
trung vào việc phát triển kỹ thuật quân sự, vũ khí do Trung Quốc tự chế tạo
cũng có trình độ kỹ thuật rất cao. Đứng về khía cạnh vũ khí, Việt Nam không có
lựa chọn nào khác ngoài việc mua từ Mỹ. Tuy nhiên, việc mua ấy sẽ không thể
thành hiện thực được nếu chính phủ Mỹ vẫn bị ràng buộc bởi lệnh hạn chế bán các
loại vũ khí sát thương cho Việt Nam vốn kéo dài từ mấy chục năm nay.
Về đồng minh, lâu nay có vẻ như
Việt Nam cố gắng ve vãn nhiều quốc gia nhưng thành thực mà nói, một, không có
nước nào sẵn sàng đứng bên cạnh Việt Nam và chia lửa với Việt Nam trong trận
đối đầu với Trung Quốc; và, hai, nếu muốn, họ cũng không đủ sức. Ngay trong
khối ASEAN, những nước có thể đứng về phía Việt Nam cũng rất ít ỏi. Việt Nam
chỉ có thể đi với những quốc gia có quyền lợi xung đột với Trung Quốc như
Philippines, Malaysia và Brunei. Nhưng cả bốn nước hợp lại vẫn không phải là
đối thủ với Trung Quốc. Đó là chưa kể giữa bốn nước này, mâu thuẫn về chủ quyền
trên biển và đảo vẫn khá gay gắt. Ở châu Á, chỉ có hai quốc gia thực sự mạnh về
cả kinh tế lẫn quân sự là Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng do những ràng buộc về
pháp lý, Nhật Bản không thể đưa quân sang giúp Việt Nam trong trường hợp có
chiến tranh. Trong khi đó, Hàn Quốc ở cái thế cũng rất bấp bênh: Trung Quốc có
thể sử dụng Bắc Hàn để ngăn chận mọi nỗ lực quân sự của Hàn Quốc trong việc
chống cự lại Trung Quốc.
Bởi vậy, dù thích hay không
thích, Việt Nam cũng nên thừa nhận một điều: quốc gia duy nhất có thể giúp đỡ
Việt Nam trước sự đe dọa của Trung Quốc không ai khác hơn là Mỹ. Quan hệ đồng
minh với Mỹ là con đường duy nhất để tự vệ của Việt Nam.
Lấn cấn duy nhất của mối quan hệ
ấy là quá khứ chiến tranh giữa hai nước. Đối với chính phủ Mỹ, thật ra, đó
không phải là vấn đề. Tất cả các chính khách Mỹ đều theo chủ nghĩa thực dụng
(pragmatism) và thực tế (realism). Câu châm ngôn cửa miệng của họ là: không có
bạn vĩnh viễn cũng không có kẻ thù vĩnh viễn; chỉ có quyền lợi quốc gia là vĩnh
viễn. Do đó, chính phủ Mỹ sẵn sàng bắt tay với Việt Nam, kẻ thù cũ của họ, để
bảo vệ Biển Đông. Họ không bảo vệ Việt Nam. Họ chỉ bảo vệ Biển Đông. Và vì Biển
Đông, họ sẵn sàng xem Việt Nam là một đồng minh chiến lược.
Nhưng trên thế giới, quan hệ đồng
minh nào cũng dựa trên hai hoặc một trong hai nền tảng: quyền lợi và sự tin
cậy.
Giữa Việt Nam và Mỹ hiện nay có
rất nhiều điểm chung về quyền lợi: Cả hai đều cần Biển Đông. Với Việt Nam, đó
là vùng biển của Việt Nam, là một trong những nguồn lợi tức lớn của Việt Nam về
phương diện kinh tế đồng thời cũng là danh dự và lòng tự hào dân tộc của Việt
Nam về phương diện tinh thần. Với Mỹ, đó là con đường hàng hải quan trọng vừa
có ý nghĩa về kinh tế vừa có ý nghĩa về quân sự. Mỹ cần bảo vệ Biển Đông, nhưng
việc bảo vệ đó trở thành khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả nếu Việt Nam
chấp nhận nhượng bộ hoặc đầu hàng Trung Quốc.
Tuy nhiên, một thứ quan hệ dựa
trên quyền lợi không thể kéo dài và cũng không đủ mạnh để lôi kéo Mỹ. Nền tảng
thứ hai của quan hệ đồng minh bao giờ cũng là sự tin cậy. Sự tin cậy trong
chính trị khác với sự tin cậy giữa hai cá nhân vốn chỉ dựa vào tính cách. Trong
chính trị, sự tin cậy chỉ được xây dựng trên nền tảng của những bảng giá trị
chung cả hai quốc gia đều chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên mà các quan hệ đồng
minh sâu sắc và bền vững chỉ có thể tìm thấy giữa các quốc gia gần gũi với nhau
về văn hóa, như giữa Mỹ và Anh, Úc, Tân Tây Lan, hoặc nhạt hơn một chút, giữa
Mỹ và các quốc gia khác ở Âu châu. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong quá
trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ lâu nay, Mỹ luôn luôn đưa vấn
đề nhân quyền ra như một điều kiện. Không phải Mỹ muốn cứu một số cá nhân đang
bị giam giữ trong nhà tù. Với chính phủ Mỹ, những cá nhân ấy hoàn toàn vô
nghĩa. Điều quan trọng nhất là Mỹ muốn thấy ở Việt Nam những sự chia sẻ chung
về các bảng giá trị văn hóa: tôn trọng quyền con người. Hơn nữa, chính phủ Mỹ
cũng muốn dân chúng Mỹ nhận thấy điều đó.
Có thể nói trở ngại chính trong
việc nâng cấp quan hệ đồng minh giữa Việt Nam và Mỹ không phải ở Trung Quốc hay
bất cứ nước nào khác mà chính là dân chúng Mỹ. Không nên quên vết thương của
nhiều người Mỹ trong chiến tranh Việt Nam với 58.000 người chết vẫn chưa lành
hẳn. Cái gọi là hội chứng Việt Nam trong một số thành phần dân chúng Mỹ vẫn còn
sâu đậm. Những người ấy không dễ dàng để mặc cho chính phủ Mỹ muốn làm gì thì
làm. Họ có những yêu sách của họ. Một trong những yêu sách ấy là: Việt Nam xứng
đáng để làm bạn và để được bảo vệ. Việc tôn trọng nhân quyền là một thước đo
chính. Không có một chính trị gia nào ở Mỹ dám bất chấp yêu sách chính đáng ấy
của dân chúng Mỹ.
Chắc chắn Việt Nam sẽ đáp ứng một
số yêu sách về nhân quyền của chính phủ và dân chúng Mỹ bằng cách thả một số tù
nhân chính trị hiện đang bị họ giam giữ. Tuy nhiên, vấn đề là họ có thực tâm
hay không. Cho đến nay, về vấn đề này, Việt Nam vẫn chơi một trò rất lưu manh:
Trước sức ép của Mỹ, họ thả một số người nhưng lại bắt một số người khác. Đó là
điều họ từng làm. Tôi chỉ hy vọng, hiện nay, trước những thử thách sinh tử của
đất nước, họ sẽ không chơi cái trò lưu manh vặt ấy nữa. Nếu không, cơ hội để
cứu Việt Nam ra khỏi ách Bắc thuộc rất dễ biến thành mây khói.
0 nhận xét