Chính sách "ba không' của VN có đủ chống TQ?
Nguyễn Xuân Vinh
Với chính sách „ba không“, Việt Nam cam kết là „không tham gia
các liên minh quân sự và không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không
cho nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không dựa vào nước nào để chống
nước khác“.
Đối với một quốc gia với vị trí chiến lược của Việt Nam, nằm
bên lề của những tuyến đường hàng hải quan trọng nhất thế giới, một vùng có sự
chú ý của nhiều cường quốc, chính sách này có cái lý của nó cho mục đích giữ
nền độc lập.
Nhưng nếu quốc gia đó cùng lúc lại nằm bên vùng biển với nhiều
tranh chấp lãnh thổ nhất hiện nay trên thế giới, với những đảo và vùng biển bị
một cường quốc hung hăng đe dọa, liệu chính sách này có còn phù hợp nữa để giữ
sự toàn vẹn lãnh thổ?
Chỉ cần nhìn sơ vào thống kê sức lực quân sự của Việt Nam và
so sánh với Trung Quốc cũng như các nước khác trong vùng hiện tại đang có những
tranh dành về lãnh thổ với Trung Quốc cũng đủ để thấy rằng sự duy trì chính
sách „ba không“ là một đường lối mà Việt Nam không thể đi tiếp trong tình huống
này.
Mặc dù là một quốc gia với lãnh thổ trải dài dọc vùng biển với
diện tích hơn 3.600.000 cây số vuông, lực lượng hải quân Việt Nam cho đến nay
không đóng một vai trò quan trọng trong chính sách quốc phòng.
Bảy hộ tống hạm
Hiện nay lực lượng chủ lực của hải quân Việt Nam với khả năng
hoạt động trên đại dương bao gồm 7 chiếc hộ tống hạm.
Trong đó có hai chiếc hộ tống hạm „Đinh Tiên Hoàng“ (HQ 011)
và „Lý Thái Tổ“ (HQ 012) là những chiến hạm lớn nhất và tân tiến nhất của hải
quân Việt Nam. Năm chiếc còn lại thuộc về hạng hộ tống hạm nhẹ hạng Petya III
được đóng trong thập niên 70, giờ đây được xem là lỗi thời và không phải là đối
thủ của những chiến hạm tối tân của Trung Quốc.
Đài Loan có không quân hùng hậu hơn Việt Nam
Ngoài ra còn có 6 tuần duyên hạm nhỏ, có trang bị hỏa tiễn tối
tân.
Nhưng những tàu này lại không có khả năng hoạt động biệt lập
lâu ngoài khơi.
Ngoài ra từ đầu năm 2014 Việt Nam cũng có được hai chiếc tàu
ngầm tối tân. Đó là chiếc „Hà Nội“ (HQ 182) và chiếc „TP Hồ Chí Minh“ (HQ 183).
Với lực lượng hải quân như thế Việt Nam chỉ mạnh hơn Phi Luật
Tân. Các nước trong vùng hiện đang có những tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc
như Đài Loan, Nam Hàn và Nhật đều có những lượng hải quân hùng hậu hơn nhiều.
Sự yếu đuối trên biển cũng được phản ảnh trên bầu trời. Không
quân Việt Nam hiện nay, theo như ước lượng của viện nghiên cứu International
Institute for Strategic Studies (IISS) ở Anh Quốc, có khoảng 97 chiến đấu cơ
bao gồm các loại MiG-21, Su-22, Su-24 và Su-30.
Trong khi 24 chiếc Su-30 và 11 chiếc Su-24 mua từ năm 2004
được xem là cột trụ của lực lượng bảo vệ không phận, thì đa số máy bay còn lại
thuộc vào loại MiG-21 và Su-22 đã quá lỗi thời và không biết bao nhiêu còn sử
dụng được.
Trung Quốc hiện có ba hạm đội và một đội
tàu ngầm lớn
Để trả lời câu hỏi lực lượng không quân Việt Nam có đủ khả
năng để bảo vệ đất nước và biển đảo hay không, chỉ cần so sánh: Đài Loan, với
một diện tích chỉ bằng khoảng 1/9 của Việt Nam, lại có một lực lượng không quân
gồm khoảng 400 chiếc chiến đấu cơ phản lực tối tân!
Trong khi đó, lực lượng hải quân của Trung Quốc được chia ra
ba hạm đội, đó là hạm đội Bắc hải, hạm đội Đông hải và hạm đội Nam hải. Hạm đội
Nam hải là lực lượng kiểm soát vùng Biển Đông, và là đối thủ trực tiếp của hải
quân Việt Nam trong những cuộc xung đột trong quá khứ và tương lai.
Theo tài liệu của bộ quốc phòng Mỹ năm 2014 thì lực lượng tác
chiến của hạm đội này bao gồm 17 tàu ngầm, 8 khu trục hạm, 18 hộ tống hạm và 33
tuần duyên hạm. Một lực lượng vô địch trên Biển Đông, và là một mối đe dọa cực
kỳ nguy hiểm cho lãnh hải Việt Nam với một căn cứ lớn ở Yalong phiá nam đảo Hải
Nam.
Ngoài ra trên đảo Hải Nam còn có hai sư đoàn không quân với
khoảng 200 chiếc chiến đấu cơ tối tân đe doạ không phận trên biển của Việt Nam.
Với sự chênh lệch quân lực như vậy, nếu Việt Nam duy trì cái
gọi là chính sách „ba không“ thì sẽ không thể nào tránh khỏi sự mất mát biển
đảo.
Câu hỏi cũng đuợc đặt ra là Việt Nam sẽ làm gì nếu Trung Quốc
tuyên bố thiết lập vùng nhận diện phòng không (Air Defense Identification Zone)
trên Biển Đông?
Khi Trung Quốc tuyên bố điều này đối với không phận trên các
đảo đang tranh chấp với Nhật mà Nhật gọi là Senkaku và Trung Quốc gọi là Diaoyu,
Nhật và Mỹ lập tức phế bỏ điều đó và đã cho không quân đi tuần trong khu vực
đó. Trước thái độ cứng rắn của hai nước đồng minh này, Trung Quốc đã phải
nhượng bộ và đã không kiên quyết thi hành những biện pháp đã đe dọa.
Liệu chính phủ Việt Nam cũng sẽ có đủ bản lãnh để phản ứng như
thế không? Nhưng dù có đi nữa, có thể là không quân Việt Nam cũng không đủ khả
năng để thực hiện một chiến dịch như Nhật đã làm.
Việt Nam không thể đơn thân đối đầu với Trung Quốc, nếu muốn
bảo vệ lãnh thổ. Việt Nam phải chỉnh sửa chính sách „ba không“.
Nhưng chỉnh sửa ra sao?
Hoa Kỳ đã rời Subic thì vào Cam Ranh làm gì?
Tham gia một liên minh quân sự để chống Trung Quốc thì không
nên vì đó sẽ là một khiêu khích đối với Trung Quốc. Và cũng không có liên minh
nào trong vùng để theo. Để cho nước khác – đó chỉ có thể là nước Mỹ thôi – đóng
quân tại Việt Nam cũng không được vì cùng lý do.
Và cũng chẳng có nước nào muốn đóng quân tại Việt Nam để bị
rơi vào vai trò phải làm thần hộ mệnh cho Việt Nam để chọi với Bắc Kinh. Thêm
nữa, Mỹ đã bỏ Subic Bay, vậy thì vào Cam Ranh để làm gì?
Chỉ còn giải pháp là tựa vào một hoặc nhiều nước để giữ cân
bằng với Trung Quốc. Hiện nay trong vùng Đông Á Thái Bình Dương chỉ có hai
cường quốc Việt Nam có thể đến để thực hiện chiến lược này, đó là Mỹ và Ấn Độ.
Thái độ của Mỹ về Biển Đông hiện rất thuận lợi cho Việt Nam.
Chính phủ Obama cũng đã lên tiếng hỗ trợ các quốc gia láng giềng của Trung Quốc
trong tranh chấp hải phận.
Tháng Hai 2014, Mỹ đã chính thức phủ nhận tính cách hợp pháp
của cái „bản đồ 9 đoạn“ khi Thứ trưởng ngoại giao Daniel Russel tuyên bố trước
ủy ban ngoại vụ của quốc hội Mỹ rằng, sự khẳng định chủ quyền của Trung Quốc
trong Biển Đông là „không phù hợp với các điều luật quốc tế“.
Chính phủ Mỹ bắt đầu lo âu vì xu hướng ngày càng bành trướng
của Trung Quốc. Những hành động của Trung Quốc đã gây xôn xao tại các nước đồng
minh của Mỹ và là một yếu tố gây ra rủi ro cho nền kinh tế của vùng châu Á Thái
Bình Dương.
Chính phủ Mỹ sẽ không bao chấp nhận để Trung Quốc kiểm soát
những tuyến đường hàng hải trên Biển Đông và để những mạch máu dẫn đến Nhật,
Nam Hàn và ngay cả miền Tây nước Mỹ chạy qua hải phận Trung Quốc.
Mỹ sẽ can thiệp nhiều hơn trong sự tranh chấp lãnh hải này,
thứ nhất là để ngăn ngừa một sự xung đột bạo lực, thứ nhì là để giữ uy tín của
các đồng minh tại châu Á.
Phát triển thuận lợi
Việt Nam phải tận dụng điều này. Mối liên hệ Mỹ Việt đang phát
triển thuận lợi. Ngoài sự bang giao về chính trị và kinh tế, những bước đầu
tiến tới bình thường hóa quan hệ quân sự hai bên cũng đã được tiến hành. Hơn
nữa, nếu bang giao tốt đẹp, Việt Nam có thể được cơ hội mua vũ khí tinh vi của
Mỹ như tàu chiến hoặc máy bay.
Việt Nam cũng phải liên kết nhiều hơn với các nước trong vùng
như Ấn Độ, Nhật và Nam Hàn. Họ cũng lo ngại và bất bình với thái độ ngang ngược
của Trung Quốc. Nếu tạo được một sự thoả thuận với các nước ven Biển Đông về
quyền sử dụng biển, thí dụ như theo hiệp ước UNCLOS, thì sự tranh chấp sẽ biến
thành một sự phân chia trên căn bản pháp lý quốc tế.
0 nhận xét