Đối lập chính trị
Cố GS Nguyễn Văn Bông
LTS: Đây là một bài tham luận sâu sắc về quan niệm
"Đối Lập" viết bởi cố Giáo Sư Nguyễn Văn Bông trong bối cảnh chính
trị của nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Tạp Chí Cách Mạng xin đăng lại cho những độc giả
muốn dùng làm tài liệu tham khảo.
I. Định Nghĩa Và Các
Quan Niệm Về Đối Lập
Nói
đến Dân Chủ là chúng ta nghĩ ngay đến vấn đề đối lập, mà đối lập là gì? Và được
quan niệm như thế nào?
A. Định Nghĩa
Chúng
ta đã dùng nhiều danh từ đối lập. Mà đối lập là gì? Thế nào là đối lập? Đứng về
phương diện lịch sử mà suy xét, đối lập phát sinh ở sự thực hành chính trị và
liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ Đại Nghị. Nói đến đối lập tức
là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài chính phủ. Đối lập là khía cạnh nghị
viện của vấn đề. Ý niệm đối lập cần phải được phân tích rõ ràng hơn nữa để phân
biệt nó với những hiện tượng tương tự. Đối lập có ba đặc điểm: Một sự bất đồng
về chánh trị, có tánh cách tập thể và có tính cách hợp pháp.
1.
Trước nhất, đối lập phải là một sự bất đồng về chánh trị. Hiện tượng đối lập
chỉ có, khi nào những kẻ chống đối có thể tổng hợp lại tất cả những vấn đề được
đặt ra, đưa những vấn đề ấy lên một mực độ đại cương và phán đoán theo một tiêu
chuẩn chính trị. Có thể có một số đông người dân chận đường chận xá để phản đối
một chính sách của chính phủ, có thể có một số đông sinh viên, một đoàn thể văn
hóa hay tôn giáo biểu tình đòi hỏi những cái gì. Đành rằng những sự kiện ấy có
thể có hậu quả chính trị, nhưng đó không phải là đối lập. Đó chỉ là một sự
khước từ, kháng cự hay phản đối. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào sự khước từ
ấy, sự kháng cự ấy, sự phản đối ấy được chính trị hóa.
2.
Là một sự bất đồng về chính kiến. Đối lập phải có tính cách tập thể. Trong bất
cứ lúc nào, luôn luôn có những người bất đồng chính kiến với chính quyền. Có
thể có một thiểu số đông anh em, thỉnh thoảng họp nhau, rồi trong lúc trà dư
tửu hậu, bàn quốc sự, có một thái độ chống đối đường lối, chủ trương của chính
phủ. Đó là những kẻ chống đối, những cá nhân đối lập. Và những kẻ chống đối ấy
có thể có trong chính thể Độc Tài, Cộng Sản. Đó không phải là đối lập.
Đối
lập chỉ có khi nào sự bất đồng chính kiến ấy có tính cách tập thể, khi nào nó
là kết quả biểu hiện một sự hành động có tổ chức của những kẻ chống đối. Nói
đến sự hành động có tổ chức là nghĩ ngay đến chính đảng. Chỉ có đối lập khi nào
có một chính đảng đối lập.
3.
Là một sự bất đồng về chính kiến có tính cách tập thể, đối lập phải hợp pháp
nữa. Có thể vì một lý do gì mà một đoàn thể phải dùng võ lực chống lại chính
quyền. Có thể vì một lý do gì mà một chính đảng phải hoạt động âm thầm trong
bóng tối. Những hành động ấy, đành rằng nó có tính cách tập thể và kết quả của
một sự bất đồng chính kiến, không được xem là đối lập. Những hành động ấy chỉ
được xem là những cuộc âm mưu phiến loạn hay kháng chiến, nó không còn là đối
lập nữa. Vì đối lập chỉ hoạt động trong vòng pháp luật.
B. Các Quan Niệm Về Đối Lập
Một
khi đã ý thức được danh từ "đối lập" và nhận định tầm quan trọng của
nó trong cuộc sinh hoạt chính trị, vấn đề then chốt được đặt ra là xác định vị
trí của đối lập trong các chính thể. Nếu tinh túy của dân chủ là lòng độ lượng,
khoan dung và tự do chính trị, thì lẽ tất nhiên lòng độ lượng, khoan dung và tự
do chính trị ấy được thể hiện trên bình diện chính trị, qua những quyền của đối
lập và sự hiện diện của đối lập chỉ là kết quả của sự thừa nhận tự do chính
trị. Đối lập chỉ có giá trị và hiệu quả trong một chế độ mà triết học chính trị
là Dân Chủ Tự Do. Vì đối lập dựa trên tinh thần khoan dung, trên sự chính đáng
của bất đồng chính kiến. Vì thừa nhận tính cách tương đối của chân lý chính
trị.
Một
quan niệm đối lập như thế, dựa trên Chủ Nghĩa Tự Do, Chính Thể Độc Tài không
thể chấp nhận được. Trong chính thể này, chính quyền là tất cả, còn đối lập
chẳng những vô ích mà còn nguy hiểm nữa. Vô ích vì những nhà độc tài luôn cho
rằng ý thức hệ của mình là bất di bất dịch và vai trò của cơ quan công quyền
không phải tìm lấy một ý chí đi sát với nguyện vọng của quốc gia mà trái lại
chỉ có nhiệm vụ áp dụng mệnh lệnh của chính đảng nắm quyền lãnh đạo. Chẳng
những vô ích, đối lập còn nguy hiểm nữa. Nguy hiểm cho sự thực hiện nguyện vọng
của quần chúng, vì hành động của đối lập phân ly quần chúng. Bởi thế, đối lập
cần phải được thanh trừng và những cái mà người ta gọi là Dân Chủ, quyền tự do
công cộng, những lợi khí mà đối lập dùng để hoạt động, lợi khí ấy cần phải được
cấm nhặt.
Bị
khước từ bởi những chính thể Độc Tài, đối lập chỉ được thừa nhận trong chính
thể Dân Chủ, chẳng những trên bình diện triết lý chính trị, đối lập còn được
chứng minh qua khía cạnh cuộc điều hành thực tiễn của định chế. Chính sự hiện
diện của đối lập phản ảnh tính cách chân chính của ý chí quốc gia. Trong những
chế độ mệnh danh là "nhất tề - nhất trí", trong những chế độ mà người
ta chỉ nghe 99 phần trăm, đành rằng không phải không thể có được, nhưng sự vắng
mặt của đối lập làm cho người ta lắm lúc phải hoài nghi. Chỉ trên bình diện
thực tại, vai trò của đối lập chứng tỏ rằng, mặc dù bị loại ngoài hệ thống
chính quyền, đối lập cần có mặt và phát biểu.
Một
quan niệm quá ư rộng rãi về Dân Chủ, lẽ tất nhiên - dựa trên một sự đối lập
chân thành, xây dựng. Nhưng ý niệm đối lập ngày nay quá biến chuyển. Một hiện
tượng mới đã xảy ra, một đối lập, không phải trong chính thể, mà chống chính
thể Dân Chủ, một sự đối lập hoàn toàn phủ nhận nguyên tắc Dân Chủ, một sự đối
lập về ý thức hệ. Tất cả vấn đề là thử hỏi, trước một sự đối lập như thế, thái
độ của chính thể Dân Chủ phải như thế nào. Một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị
và trên bình diện quốc tế, những giải pháp bảo vệ chính thể Dân chủ tùy thuộc
hoàn cảnh thực tại chính trị của mỗi nước.
Dù
sao, để trở lại vấn đề đối lập trong chính thể Dân Chủ, không ai có thể chối
cãi tính cách chính đáng của sự hiện diện của đối lập. Nhưng đối lập, chẳng
những phải có mặt mà còn phải có thể phát biểu nữa. Mà đối lập phát biểu để làm
gì và hành động của đối lập sẽ có tác dụng gì trong guồng máy chính trị quốc
gia? Và theo thủ tục nào, dưới hình thức nào, với những bảo đảm nào, đối lập có
thể mạnh dạn và thành thực phát biểu ý kiến?
Đó
là hai vấn đề cực kỳ quan trọng, vấn đề vai trò của đối lập và vấn đề qui chế
của đối lập, hai vấn đề căn bản mà chính thể Dân chủ cần phải giải quyết một
cách phân minh để ổn định cuộc sinh hoạt chính trị và để đối lập làm tròn sứ
mạng của nó.
II- Vai Trò Của Đối
Lập
Trong
chính thể Dân Chủ thật sự, hiện diện của đối lập là một điều hết sức chính đáng.
Chính đáng vì thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tự do chính trị. Chẳng những
chính đáng, đối lập lại còn cần thiết nữa. Cần thiết cho phẩm tính, đối lập còn
cần thiết cho sự hiện hữu của chính quyền nữa. Trong cuộc sinh hoạt chính trị
ổn định, đa số ở đâu ra, chính quyền hiện tại ở đâu ra, nếu không phải là sự
kết tinh của sự tranh chấp với đối lập? Trên khía cạnh này, đối lập đóng vai
trò căn bản, vai trò hợp tác với chính quyền, đó là hai khía cạnh của vai trò
đối lập.
A. Vai Trò, Hạn Chế
Và Kiểm Soát Chính Quyền
1-
Hạn chế và kiểm soát chính quyền. Đó là một trong những hoạt động cốt yếu của
đối lập ở bất cứ lúc nào trong cuộc sinh hoạt chính trị. Trước hết, ở giai đoạn
tuyển cử đối lập có mặt, có thể phát biểu ý kiến, đối lập có quyền phủ nhận làm
cho chính quyền bỏ bớt thái độ cứng rắn, những chương trình mỵ dân, những hứa
hẹn hão huyền. Đối lập chận đứng lại những tư tưởng hẹp hòi, những quan điểm
thiển cận, tư tưởng và quan điểm không phải của một chính phủ quốc gia mà hoàn
toàn lệ thuộc vào mệnh lệnh của đảng phái.
2-
Đối lập bảo đảm tính cách đích xác công khai của những quyết định của nhà nước.
Thật vậy, khi mà chúng ta nói đến ý chí của toàn dân, ý chí của quốc gia, cần
phải nhận định rằng đó chỉ là ý chí của đa số. Ý chí của đa số là ý chí của
quốc gia, cái phương trình ấy chỉ có giá trị khi nào quyết định của đa số được
chấp thuận trong một bầu không khí cởi mở, sáng tỏ và tự do. Chính đối lập bảo
đảm tính cách đích xác của quyết định của đa số và bắt buộc đa số nắm chính
quyền phải tham dự một cuộc tranh luận công khai. Vẫn biết rằng, trong chế độ
Tổng Thống hay trong chế độ Đại Nghị mà chính phủ có đa số ở Quốc Hội, đối lập
không thể ngăn cản chính quyền hành động theo ý của họ. Nhưng, tự do chỉ trích,
đối lập bắt buộc địch thủ phải tiết lộ dự định của họ, những lý do của một
quyết định của họ. Và như thế, đối lập bảo đảm rằng, khi một biện pháp hay
chính sách được chấp thuận, những lý lẽ chống đối hay bênh vực biện pháp, chính
sách ấy, đều được công khai đưa ra dư luận. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính
quyền, đối lập đảm đương một cách thiết thực hơn nữa trên diễn đàn Quốc Hội.
3
- Với phương tiện nào đối lập đóng vai trò của nó trên bình diện nghị viện?
Đành rằng cơ cấu chính phủ nước này không giống nước kia, nhưng trong bất cứ
chính thể Dân Chủ nào, người ta cũng tìm thấy từng ấy phương tiện cho phép đối
lập phát biểu công khai ý kiến của họ. Trong những lúc bàn cãi và biểu quyết
ngân sách quốc gia, sự hiện hữu của đối lập bắt buộc chính quyền bỏ hẳn chương
trình mỵ dân, thái độ cứng rắn, và nhứt là chính quyền hết sức dè dặt khi bắt
buộc toàn dân phải hy sinh quá độ. Cuộc đối thoại giữa chính phủ và quốc hội -
chung qui giữa chính quyền và đối lập - qua những cuộc tranh luận, những câu
hỏi, những cuộc tiếp xúc với ủy ban hay giữa phiên họp công khai là những dịp
mà các vị Dân Biểu đối lập nói lên những lạm dụng của cơ quan hành chánh, hay
nhận được - qua cuộc trình bày của các vị Bộ Trưởng - tin tức về một vấn đề
nhất định hay câu trả lời đích xác. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền
được biểu hiện một cách thiết thực nữa qua nguyên tắc trách nhiệm chính trị.
Chúng ta biết rằng trong chế độ Đại Nghị, chính phủ bắt buộc phải từ chức khi
đa số ở Quốc Hội biểu quyết chống chính phủ. Yếu điểm này sẽ là một ảo mộng nếu
không có một đối lập thực sự.
Vậy
qua từng giai đoạn của sự khởi thảo chương trình và trong hành động hàng ngày,
chính quyền luôn luôn để ý đến lập trường của đối lập, tự kiểm soát lấy mình và
trong việc ấn định kế hoạch quốc gia, lắm lúc phải nhận lấy chủ trương của đối
lập. Thái độ này không nhằm làm vui lòng đối lập mà cho toàn dân, vì để ý đến
lập trường của đối lập trong việc xác định đường lối chính trị, chính quyền
hướng về nguyện vọng của quốc gia.
4
- Hạn chế và kiểm soát chính quyền. Vai trò tối quan trọng này, không phải đối
lập luôn luôn đảm đương với tất cả hiệu quả thật sự. Không, vấn đề không phải ở
chỗ đó. Vấn đề là ở khía cạnh tâm lý của toàn dân. Vấn đề là mỗi công dân có
thể chắc chắn rằng, ngoài Quốc Hội hay trên diễn đàn Quốc Hội, có những người đại
diện có thể phát biểu ý kiến của mình, không phải theo đường lối của chính
quyền mà khác hẳn chính quyền. Và dù rằng ý kiến không được chấp thuận đi nữa,
họ có cảm giác rằng sự kiện ấy do nơi quyền lợi tối cao của quốc gia, chứ không
phải vì tính thị hiếu nhất thời, chuyên chế. Cần phải nhận định rằng, đối lập
không những là tượng trưng cho một khuynh hướng chính trị, đối lập còn có giá
trị tự bản chất nó nữa. Vì chỉ có đối lập và bởi đối lập mà việc kiểm soát của
toàn dân mới có tính cách chân thành và hiệu lực trong một chế độ thương nghị,
không những hạn chế, kiểm soát chính quyền, đối lập còn cộng tác với chính
quyền nữa.
B. Vai Trò Cộng Tác
Với Chính Quyền
Cho
rằng đối lập cộng tác với chính quyền, đó là một khẳng định có hơi mâu thuẫn.
Tuy nhiên chính đó là khía cạnh tích cực của vai trò đối lập. Và chúng ta có
thể quả quyết rằng cái lợi của chính quyền là dung túng đối lập.
1
- Qua những cuộc tranh luận trong một bầu không khí cởi mở, những ý tưởng khích
động tinh thần, những định kiến bớt phần cứng rắn, những ý kiến được chọn lọc
và uy quyền sáng tỏ. Bất cứ một chính quyền nào cũng có khuynh hướng tự giam
mình trong tình trạng cô đơn, chỉ nghe lời của đồng chí và lấy quyết định phù
hợp với ảo vọng hoang đường qua những nhận xét riêng biệt của mình về thời
cuộc. Đối lập có mặt, nhắc lại cho đoàn thể ở chính quyền tính cách phức tạp
của thực tại chính trị, đem lại những màu sắc chính trị và đôi khi phản kháng
lại những truyền tin báo cáo đơn phương của chính phủ. Qua những hành vi tích
cực ấy, chính quyền thâu lượm được những dấu hiệu quý giá về tình trạng tinh
thần của dư luận. Chẳng những trong lãnh vực thông tin, vai trò cộng tác với
chính quyền của đối lập nổi bật lên nữa qua khía cạnh nghị viện.
2
- Tất cả những công việc thuộc về thiết lập chương trình nghị sự, về những vấn
đề cần phải được thảo luận, những dự án ưu tiên, những cuộc tiếp xúc v.v...,
tóm lại, vấn đề liên hệ đến việc tổ chức công tác của Quốc Hội, sự thỏa thuận
giữa đối lập và chính quyền là điều kiện cốt yếu của một tình trạng chính trị
ổn định. Và lịch sử đã chứng minh rằng, trong những trường hợp đặc biệt, trong
những tình trạng khẩn cấp, tối cần, trong những trường hợp mà sinh tồn của quốc
gia được đặt ra, trong những trường hợp ấy, lịch sử đã chứng minh rằng đối lập
từ khước độc lập và lắm lúc lại ủng hộ chính quyền để bảo vệ uy thế của chính
quyền lúc phải đương đầu với mọi cuộc ngoại xâm.
3
- Hướng dẫn chính quyền tham gia vào cuộc điều hành công tác Quốc Hội, một sự
đối lập có tổ chức, có hệ thống đóng một vai trò cực kỳ quan trọng là chủ
trương một chính sách để thay thế cho chính sách chính quyền. Cần phải nhấn
mạnh đặc điểm này. Trong những xứ mà tình trạng chính trị chưa ổn định, trong
những xứ mà đối lập vắng mặt, người ta luôn luôn lo ngại cho tương lai chính trị
quốc gia. Ai sẽ thay thế nhà lãnh tụ hôm nay? Viễn tượng những cuộc cách mạng
đẫm máu, những cuộc chính biến, viễn tượng những gián đoạn chính trị đầy hậu
quả làm cho cuộc sinh hoạt chính trị kém phần tích cực. Đối lập, trong chính
thể Dân Chủ, cho phép Quốc Gia xoay chiều, đổi hướng trong khung cảnh của định
chế và không tổn thương đến sự liên tục của cuộc sinh hoạt chính trị. Đối lập
là chính phủ của ngày mai, đối lập tượng trưng sự tin tưởng vào định chế quốc
gia, đối lập duy trì sự liên tục của chính quyền.
Một
sự đối lập hữu hiệu là một lực lượng tích cực. Cần phải nhận định rằng đối lập
không phải là lực lượng luôn luôn chống đối chính quyền. Đối lập và chính quyền
là hai yếu tố căn bản của thế quân bình chính trị trong chính thể Dân Chủ.
Hạn
chế và kiểm soát chính quyền, cộng tác với chính quyền, một khi đã hiểu như
thế, vai trò của đối lập, vấn đề được đặt ra bây giờ là thử hỏi trong điều kiện
nào đối lập có thể làm tròn sứ mạng của nó trong một bầu không khí khoan dung,
khi mà một số quyền hạn của đối lập được xem là bất khả xâm phạm và đồng thời
đối lập thông suốt nhiệm vụ của mình. Kê khai những quyền hạn ấy, ấn định nghĩa
vụ của đối lập, tức là bàn đến vấn đề quy chế của đối lập.
III - Qui Chế Của Đối
Lập
Vấn
đề ấn định qui chế của đối lập tùy thuộc mỗi quan niệm riêng về đối lập. Nếu
đối lập chỉ được xem là một quyền đối lập, nó chỉ là hậu quả tất nhiên của thể
chế chính trị Dân Chủ Tự Do. Đối lập tức là có quyền xử dụng tất cả những tự do
hợp pháp. Trái lại, nếu đối lập được đưa lên hàng một chức vụ rất cần thiết
cũng như chính quyền, nếu đối lập được xem không phải là một việc bất đắc dĩ,
mà là một liều thuốc kích thích chính quyền, thì theo quan niệm này, quy chế
chẳng những bảo đảm tự do của đối lập mà còn chú ý tới công hiệu của nó nữa. Tổ
chức đối lập, định chế hóa đối lập đó là quan niệm thứ hai của đối lập.
Nhưng
dù có được định chế hóa hay không, đối lập để có thể đảm đương vai trò chủ yếu
của nó, phải là một đối lập tự do và xây dựng. Nói đến đối lập tự do là phải
nghĩ ngay đến quyền hạn của nó; nói đến đối lập xây dựng là nghĩ đến ngay nghĩa
vụ của nó.
A - Một Trong Những
Quyền Hạn Của Đối Lập
1
- Là quyền không thể bị tiêu diệt. Vì đối lập luôn luôn là một chướng ngại,
chính quyền hay có khuynh hướng thừa một cơ hội nào đó, tẩy trừ phần tử rối
loạn ấy đi. Vẫn biết rằng, có những lúc, những giờ phút nguy nan, đối lập hoặc
tự mình, hoặc thỏa thuận với chính quyền, ngưng hẳn những phê bình hay chỉ
trích. Nhưng đó chỉ là im hơi, lặng tiếng; chớ quyền sinh tồn vẫn là quyền tối
cao của đối lập. Tiêu diệt đối lập tức là dọn đường cho Chủ Nghĩa Độc Tài. Đối
thoại trở thành độc thoại.
2
- Quyền thứ hai của đối lập là quyền phát biểu. Và quyền phát biểu này được thể
hiện bởi những cái mà người ta gọi là tự do công cộng. Số phận của đối lập sẽ ra
sao nếu đối lập không tự do có ý kiến khác hẳn ý kiến chính quyền, và tự do
phát biểu ý kiến ấy trên báo chí và sách vở? Nếu đối lập không được tự do hội
họp? Chỉ có đối lập thật sự trong một chế độ mà các tự do này được ấn định và
chế tài một cách hợp lý.
Chúng
ta có nói rằng thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tính cách tương đối của chân
lý chánh trị Dân Chủ. Tính cách tương đối này được thể hiện qua sự tự do tuyển
cử. Tự do tuyển cử tức là tự do trình ứng cử viên, tự do cổ động và nhất là sự
bảo đảm tính cách chân thành của kết quả cuộc bầu cử.
Trên
bình diện đại nghị, đối lập cần phải được đặc biệt bảo vệ. Trường hợp Dân Biểu
đối lập bị bắt bớ hay tống giam không phải là những trường hợp hiếm có. Vì thế
mà quyền bất khả xâm phạm của Dân Biểu là một thực tại.
Những
quyền hạn mà chúng tôi đã sơ lược kê khai không phải chỉ dành riêng cho đối
lập. Đó là quyền bảo vệ tất cả công dân trong chính thể Dân Chủ. Nhưng phải
thành thật mà nhận định rằng tự do phát biểu, tự do tuyển cử, quyền bất khả xâm
phạm v.v... là những điều kiện quí giá cho đối lập luôn luôn bị chính quyền đe
dọa.
Đó
là điều kiện tối thiểu. Một quan niệm cấp tiến đã đi đến chỗ định chế hóa đối
lập. Đối lập trở thành một thực thể có hiến tính. Đó là trường hợp của Anh Quốc
vậy.
Ở
nước Anh, đối lập có một tước vị chính thức "đối lập của Nữ Hoàng".
Và đối lập của Nữ Hoàng có cả chính phủ riêng của họ, một nội các bóng trong Hạ
Nghị Viện. Vị lãnh tụ đối lập của Nữ Hoàng là một nhân vật cao cấp đầy uy thế,
luôn luôn được mời đến cùng vị Thủ Tướng tham dự những buổi lễ chính thức và
luôn luôn được tham khảo ý kiến về những vấn đề chính trị trọng đại. Và xin
nhắc lại một điều rất lý thú là "nhà nước lại phải trả lương cho vị lãnh
tụ đối lập".
Nhưng
dù sao, định chế hóa hay không, quyền sinh tồn và những điều kiện thuận tiện để
tự do phát biểu, chỉ có ý nghĩa khi nào đối lập tin tưởng có quyền nắm lấy
chính quyền. Chính sự bình đẳng trong vận hội ấy làm cho cuộc sinh hoạt chính
trị thêm phần phấn khởi.
Đối
lập có vài quyền hạn để đảm đương vai trò của nó. Nhưng đối lập không phải chỉ
có quyền. Một số nghĩa vụ hạn chế hoạt động của đối lập, nghĩa vụ nhằm mục tiêu
tôn trọng tinh thần Dân Chủ.
B - Những Nghĩa Vụ
Của Đối Lập
Một
trong những nghĩa vụ của đối lập là thừa nhận qui luật đa số. Những ai quan tâm
đến cuộc bầu cử đều rõ rằng có thể xảy ra trường hợp mà vị Tổng Thống đắc cử
hay một chính đảng chiếm đa số ở Quốc Hội trong lúc phiếu của mình lại kém địch
thủ thất bại. Nhưng đó chỉ là hậu quả kỹ thuật của luật tuyển cử. Và công lý là
một chuyện, mà hợp pháp là một chuyện khác nữa. Trường chính trị là một cuộc
tranh đấu công nhận qui luật đa số, tức là thẳng thắn tham gia cuộc đấu tranh
bởi đó là luật lệ của nguyên tắc dân chủ.
Nghĩa
vụ thứ hai của đối lập là hoạt động một cách ôn hòa xây dựng và có tinh thần
trách nhiệm. Những chỉ trích vớ vẩn, những vu khống không có căn bản chính trị
của những kẻ tự cho là chính khách, những phê bình chỉ đem lại hoài nghi và bất
mãn, đó là những tệ đoan của sự đối lập không xứng đáng với danh hiệu của nó.
Vì đâu lại có một hiện tượng bất thường như thế? Ngoài tham vọng cá nhân, hiện
tượng này phát sinh từ một hệ thống chính đảng nhất định và liên quan đến khía
cạnh ý thức hệ của một vài chính đảng.
Trong
một xứ, một hệ thống đa đảng là một thực tại chính trị, khi mà không một chính
đảng nào chiếm đa số hay ưu thế trên sân khấu chính trị. Chính phủ luôn luôn là
một chính phủ liên hiệp. Mà liên hiệp tức là tập hợp những khuynh hướng mâu
thuẫn, dung hòa những chính sách tương phản. Chính cái viễn tượng không bao giờ
tự mình chiếm được hoàn toàn quyền và thực hiện những chương trình hứa hẹn làm
cho chính đảng thiếu ý thức xây dựng và tinh thần trách nhiệm. Tính cách rời
rạc và chia rẽ của đối lập, chỉ biết phá hoại biến đổi hẳn mối tương quan
truyền thống giữa đa số và thiểu số. Đối lập không còn là đối lập ngoài và
chống chính phủ, đối lập ở đây là đối lập trong chính phủ.
Chẳng
những thế, khía cạnh ý thức của một vài chính đảng là nguyên do thứ nhì của sự
thiếu tinh thần xây dựng. Đối lập chỉ có nghĩa trong một khung cảnh chính trị
nhất định. Nếu chúng ta đồng ý về một nguyên tắc căn bản, nếu chúng ta thừa
nhận chủ quyền nhân dân, nguyên tắc phân quyền, tự do chính trị, nếu chúng ta
tôn trọng nhân vị, sự độc lập của Thẩm Phán hay quyền tự do phát biểu, thì cuộc
tranh chấp chính trị chỉ nằm trên lãnh vực thực tiễn qua những nguyên tắc thứ
yếu. Trái lại, nếu đối lập nhằm chống lại, không phải một khuynh hướng chính
trị hay một chính sách nhất định, mà chính cả nền tảng của xã hội, nghĩa là
chống cả chính thể, thì khẳng định rằng đối lập là chính phủ tương lai không
còn giá trị nữa. Vì đặc tính của đối lập về ý thức hệ là chiếm chính quyền để
rồi thủ tiêu quyền đối lập.
Trong
một tình trạng như thế, trước tình trạng mà đối lập không thi hành nghĩa vụ của
nó, những quyền hạn không còn lý do tồn tại nữa. Và "Chính Thể Dân
Chủ" cần phải có những biện pháp thích nghi để đối phó. Sa thải những phần
tử bất chính trong hành chính, bắt buộc đối lập phải có một chương trình và có
năng lực nắm chính quyền trước khi lật đổ chính phủ, sửa đổi luật bầu cử, đặt
ngoài vòng pháp luật những chính đảng quá khích, đó là một vài ví dụ cụ thể về
biện pháp được áp dụng để bảo vệ Chính Thể Dân Chủ.
IV - Đối Lập Trong
Các Quốc Gia Chậm Tiến
Phác
họa như thế, vai trò và "qui chế đối lập" trong "chính thể dân
chủ" qua sự biến chuyển của ý niệm trong xã hội cận đại, chúng ta không
khỏi tự nhủ rằng đó là lý tưởng. Và tự hỏi rằng lý tưởng ấy có phù hợp với
những quốc gia trên đường phát triển, với hiện tình những nước vừa thu hồi độc
lập.
Thực
tại chính trị cho chúng ta biết rằng, đối lập nếu không hoàn toàn vắng mặt, thì
chỉ được dung túng một phần nào, một phần nhỏ nào, trong những nước mới này,
những nước mệnh danh là Dân Chủ và đồng thời cũng được xem là những chính thể
không độc tài. Tại sao lại có một sự kiện oái oăm như thế?
Lý
do thứ nhất mà người ta đưa ra là sự đe dọa trầm trọng của độc tài Cộng Sản.
Những nước mới này, là những nước bị nạn Cộng Sản đe dọa và có nước đang chiến
đấu một mất một còn với Cộng Sản. Dung túng đối lập tức là cho Cộng Sản cơ hội
núp sau lá cờ đối lập để phá hoại nền dân chủ. Đối lập Cộng sản là đối lập về ý
thức hệ, và chúng ta biết rằng đối lập về ý thức hệ là đối lập chống chính thể
Dân Chủ.
Lý
do thứ hai là trình độ giáo dục của quần chúng. Người ta cho rằng dân chúng
chưa có một trình độ giáo dục về chính trị khá đầy đủ để cho có thể xử dụng một
cách hoàn hảo những quyền tự do công cộng. Và như thế, đối lập chỉ có hại vì nó
sẽ là bức bình phong của những tham vọng cá nhân của những kẻ không cơ sở chính
trị chỉ dựa trên cuộc chính đồ sinh hoạt. Hơn nữa, thì giờ gấp rút, nâng cao
mực sống của toàn dân là một việc tối cần, lúc kiến quốc không phải lúc bàn
cãi, phê bình hay chỉ trích.
Những
lý do mà chúng ta vừa nêu ra rất là chính đáng. Nhưng chính đáng không có nghĩa
là phải chấp nhận. Trong lĩnh vực chính trị và xã hội, sự hoàn hảo của một định
chế chính trị là kết quả của kinh nghiệm. Làm sao hy vọng một nhận thức khá cao
của quần chúng, nếu hôm nay không có học tập hướng về Dân Chủ? Không phải nhất thiết
áp dụng tất cả những gì đã có hay đang có ở Tây Phương. Thực tại chính trị xã
hội văn hóa của mỗi nước là yếu tố căn bản. Nhưng điều kiện tối thiểu phải có
để đối lập được phép khởi đầu và phát triển.
Vả
lại, vì thiếu đối lập mà Cộng Sản và những phần tử phản Dân Chủ nắm mất chính
nghĩa đối lập và lợi dụng khai thác những bất mãn, than phiền của quần chúng.
Vậy
để tránh mọi sự ngộ nhận giữa chính quyền và nhân dân, để cho trạng thái tinh
thần khủng hoảng của dư luận được thể hiện một cách ôn hòa, để cho phần tử
phiến loạn hết cơ hội lợi dụng tuyên truyền và khai thác, vấn đề đối lập tự do
và xây dựng cần phải được đặt ra. Và như thế không những trong những nước tiền
tiến, mà chính ngay trong những tân quốc gia, công cuộc kiến quốc và cứu quốc,
công cuộc xây dựng nền Dân Chủ phải là kết tinh của hoạt động song phương giữa
chính quyền và đối lập.
Giáo Sư Nguyễn Văn Bông
0 nhận xét