Hoàng Sa: chiến thuật lấn chiếm Biển Đông của Trung Quốc
Tú Anh - RFI
Cách nay
40 năm, quần đảo
Hoàng Sa lọt vào tay Trung Quốc
sau một trận đánh ác liệt đã xảy ra vào buổi sáng ngày 19/01/1974 giữa bốn
tuần dương hạm và hộ tống hạm
hải quân Việt Nam Cộng Hòa với
18 chiến hạm của Trung Quốc. Sự
hy sinh của 74 sĩ quan và binh sĩ Nam Việt Nam, ngày nay được dân chúng tôn vinh nhưng Biển Đông đã bị Bắc
Kinh từng bước lấn chiếm theo một chiến
thuật tầm ăn dâu, như một vết dầu loang, chậm mà chắc.
Từ năm 1949 đến nay, Bắc Kinh đã thi hành thủ đoạn này như thế nào, điều nghiên thời thế ra sao ? Ngày 04/09/1958 ra thông cáo khẳng định lãnh hải. Ngày
11/01/1974 lại ra thông cáo tuyên bố chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa trước khi đưa hạm đội Nam hải bao vây Hoàng Sa…. Rồi đến 1988 thì đánh chiếm một phần Trường Sa và cho đến tháng 2/1992 thì Bắc Kinh tuyên bố toàn vùng biển “Nam hải” là của Trung Quốc. Chính sách “trổi dậy hòa bình” theo kiểu Trung
Quốc đã đưa đến hệ quả là Hoa Kỳ “chuyển trục” tập trung lực lượng về châu Á Thái Bình Dương.
Vấn đề là làm thế nào để các quốc gia trong khu vực không bị cô đơn như Sài gòn, như quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 và sau đó Hà Nội năm 1988 trước tham vọng bá quyền của Trung Quốc?
RFI đặt câu hỏi với Giáo sư chính trị quốc tế Nguyễn Mạnh Hùng, đại học George
Mason, Virginia, Hoa Kỳ.
RFI: Kính chào Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng. Tổng kết tình hình năm 2013 vừa qua, báo chí tây phương mô tả Trung Quốc mở một cuộc tấn công tại hai biển Hoa Đông và Hoa Nam để vươn ra thế giới, bảo vệ an toàn đường hàng hải huyết mạch và đụng chạm vào quyền lợi của các nước trong khu vực và với Hoa Kỳ. Nhật bản đã nhiều lần lên án Trung Quốc muốn « phá vỡ nguyên trạng » trên biển, còn Việt nam mất Hoàng Sa và Philippines mất
Scarborough. Câu hỏi đầu tiên xin ông giải thích về từ nguyên trạng này, có sự khác biệt nào trong quan điểm của Bắc Kinh và các nước trong vùng ?
Giáo
sư Nguyễn Mạnh
Hùng:
Nguyên trạng
trên biển là bởi
vì có tranh chấp ở
Hoàng Sa và Trường Sa. Vùng này là vùng tranh chấp mà Trung Quốc
coi đó là là thuộc chủ
quyền lãnh thổ của
mình. Hiện nay thì Trung Quốc
chưa nắm giữ được và họ tìm cách thay đổi
tình trạng đó, thế gọi
là nguyên trạng. Chúng ta nên nhớ là mục
tiêu này, đòi hỏi này của Trung Quốc đã có từ lâu, từ
sau cuộc cách mạng Tân Hợi.
Sau cuộc cách mạng Tân Hợi,
nhất là sau khi dẹp xong loạn sứ
quân, thống nhất được đất
nước, từ thời
Tưởng Giới Thạch,
Trung Quốc bắt đầu
tìm cách đòi lại các lãnh thổ đã mất.
Theo quan điểm của Trung Quốc, những
lãnh thổ đã mất
này gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong cả
ba giai đoạn mà ông hỏi, chính sách nhất
quán của Trung Quốc gồm
một số nguyên tắc sau đây:
Chậm
và chắc, kiên trì từng bước tiến
tối đa đến
mục tiêu cuối cùng.
Mềm
nắm rắn buông, cho nên Trung Quốc không đòi những
vùng bị Nga chiếm đóng.
Lợi
dụng thời cơ căn cứ vào những
thay đổi
trong cán cân lực lượng.
RFI: Trung Quốc đã tấn công vào “nguyên trạng” bằng những phương cách nào ? Ngày 04/09/1958 Bắc Kinh ra thông cáo khẳng định lãnh hải để làm gì ? Chốt thời gian của chiến lược xuyên suốt hay lúc đó Bắc Kinh chỉ mới thăm dò phản ứng ? Đâu là mục tiêu trung hạn và tối hậu của Trung Quốc?
Giáo
sư Nguyễn Mạnh
Hùng:
Trước
1974, Hiệp định
Geneva năm 1954 chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến
17, chính quyền Bảo Đại kiểm soát phía Nam vĩ tuyến
17 và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phải mất
2 năm, cho đến
năm 1956, Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm mới
dẹp xong sự chống
đối
của các giáo phái, thống nhất được quân đội,
giành lại toàn vẹn
chủ quyền từ
tay người Pháp, và thành lập Đệ nhất Cộng Hòa. Trước khi VNCH kịp đem quân ra giữ đảo thì Trung Quốc đã nhanh
tay chiếm giữ toàn bộ
phía đông quần đảo Hoàng Sa, gồm hai đảo lớn là Phú Lâm và Linh Côn. Tức
là từ năm 1956 chứ không phải
1958.
Vào năm
1958, khi bắt đầu điều đình về
luật biển Liên Hiệp
Quốc thì Trung Quốc ra tuyên bố
12 hải lý và đồng
thời thúc đẩy
các quốc gia phải
tôn trọng. Nhưng trong 12 hải
lý này thì Trung Quốc nói là gồm
cả chung quanh lãnh thổ Trung Quốc
thì lãnh thổ này đối với họ là gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa. Khi Ông Phạm Văn Đồng viết cái công hàm đó
(14/09/1958) thì Trung Quốc coi như là công nhận
chủ quyền của
Trung Quốc trên các đảo đó nhưng
thật sự mình đọc
kỹ công hàm đó thì ông Phạm Văn Đồng chẳng nói gì đến Hoàng Sa và Trường Sa. Ông chỉ công nhận
nguyên tắc 12 hải lý mà Trung Quốc đưa ra thôi.
Nhưng
mà dù sao, đó cũng là cái dấu mốc để
Trung Quốc tiến từng
bước, chậm mà chắc
như tôi đã nói, lợi dụng
thời cơ vì năm 1956 có thời cơ đã làm rồi , đến
năm 1958 thì vấn đề
luật biển đưa luôn ra tuyên bố đó (12 hải lý) và sau này chúng ta thấy đến năm 2009, khi hết hạn đưa ra những đòi hỏi
thì Trung Quốc lại đưa ra “đường
lưỡi bò”. Mỗi thời gian thì Trung Quốc đưa ra những hành động cần thiếp
cho họ.
RFI: Cách nay 40 năm, từ ngày 17 đến 19/01 năm 1974, Trung Quốc đem quân chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa. Có thể suy luận rằng đảng Công sản Trung
Quốc, từ năm 1949 đến nay, đã thi hành chiến thuật vết dầu loang để làm chủ khu vực ?
Giáo
sư Nguyễn Mạnh
Hùng:
Không phải
chỉ có đảng
Cộng sản Trung Quốc
mà ngay từ thời
Tưởng Giới Thạch
họ đã đưa
ra những đòi hỏi về lãnh thổ của
họ rồi.
Bởi
vì lúc bấy giời họ đương ở trong tình trạng nội
chiến cho nên không làm được
gì cả. Khi đảng
Cộng sản thống
nhất được
lãnh thổ rồi
thì họ mới bắt đầu
tiến ra bên ngoài. Cũng như khi ông Ngô Đình Diệm
củng cố địa vị của mình rồi thì mới
tìm cách đưa
quân ra giữ đảo Hoàng Sa. Đó là điều kiện
rất tự nhiên.
Vì thế
cho nên như tôi đã nói (Trung Quốc)
nhất quán và luôn luôn lợi dụng thời cơ.
Thời cơ trước như mình đã thấy
năm 1956. Về sau này, năm 1974 cũng tạo
ra một thời cơ
khác. Mà muốn biết như
thế nào thì chúng ta phải nhìn khung cảnh
lịch sử thời đó. Sau khi
Trung Quốc chiếm một
phần Hoàng Sa năm 1956, thì sau đó, Trung Quốc không động tĩnh gì cả bởi vì trong suốt thời
chiến tranh Việt Nam, có sự
hiện diện áp đảo của quân đội
Mỹ và đồng
minh. Mỹ lại có căn cứ quân sự lớn ở Cam Ranh.
Khi chiến
tranh Việt Nam chấm dứt
năm 1973, Mỹ rút hết
quân khỏi Việt
Nam và giảm sự hiện diện hải
quân ở Biển Đông. Quốc Hội
Mỹ liên tiếp biểu
quyết một số luật ngăn cấm các hoạt động quân sự của Mỹ ở Đông Dương (Tu chính án Case-Church tháng 6/ 1973 cấm
mọi hoạt động quân sự của Mỹ ở Đông Dương sau ngày 15/8/1973 nếu
không được
phép trước của
Quốc Hội; Luật Chiến
Tranh tháng 11/1973 hạn chế
quyền sự dụng quân lực của Tổng Thống).
Ngoài những
hạn chế pháp lý, chính quyền
Nixon còn bị suy yếu trầm
trọng vì vụ nghe lén Watergate bắt đầu bị đem ra xử vào tháng 1/1973. Đến tháng 4/1973 khi chính cố vấn
pháp luật của
Tổng thống John Dean bắt đầu cộng tác với Công tố viên đặc biệt, chính chức
vụ Tổng thống Nixon cũng bị
lung lay khiến ông bị bó tay, không dám liều
lĩnh trong chính sách đối ngoại
chống lại ý muốn
của Quốc Hội.
Tháng
1/1974, Trung Quốc đã chớp lấy cơ hội này mà chiếm nốt
phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa.
Từ sau trận Hoàng Sa, cuối năm 1978, Việt Nam xua quân vào Cam Bốt đuổi
Pol Pot và lập chính quyền thân Việt
Nam ở Phnom Penh.
Tháng
2/1979, Trung Quốc xua quân đánh chiếm một
số tỉnh ở biên giới phía Bắc
Việt Nam trong chiến dịch
“dạy cho Việt Nam một
bài học.” Vì Việt Nam bị coi như một
con bài của Liên Xô ( Đặng
Tiểu Bình rêu rao “Việt Nam là một Cuba ở Đông Nam Á” còn
Trung Quốc là NATO ), nên Mỹ và Trung Quốc có cùng một
mục tiêu chiến lược
chung, là ngăn chặn không cho Liên Xô, thông qua Việt
Nam, bành trướng ảnh
hưởng sang Đông Nam Á và Biển Đông. Chiến tranh Cam Bốt
chia ra hai bên, một bên là liên minh Mỹ-Trung
Quốc -ASEAN ủng hộ
chính phủ liên hiệp
Sihanouk, và một bên là Liên Xô-Việt Nam -các đồng
minh Đông Âu của Nga ủng hộ
chính quyền Heng Samrin-Hun Sen.
Năm 1982,
dưới thời Brejnev, các đại cường Mỹ-Trung Quốc
-Liên Xô bắt đầu
tìm cách hòa hoãn với nhau. Chính sách này tiếp tục
dưới thời Gorbachev. Năm 1986, Gorbachev
tung chiến dịch “tái cấu trúc kinh tế (perestroika) và cởi
mở chính trị (glasnost) ở
trong nước. Ở ngoài nước, tháng 7/ 1986, trong một bài diễn
văn ở Vladivostok, Gorbachev công bố
chính sách hòa hoãn với ASEAN, điều đình ở Afghanistan và ủng hộ giải
pháp đàm phán ở Cam Bốt.
Trước đó, năm 1979, Liên Xô ký với
Việt Nam hiệp ước
hữu nghị 25 năm, được
quyền sử dụng quân cảng Cam Ranh và duy trì một hiện diện
hải quân lớn ở đó cho đến
năm 1987. Tháng 1/ 1988, trong khuôn khổ chính sách Á châu mới,
ngoại trưởng Liên Xô Edouard Shevardnadze
nói với 4 thượng nghĩ sĩ Mỹ đang thăm Matxcơva
rằng Liên Xô sẽ rút quân khỏi
các căn cứ không nằm trong lãnh thổ của
Nga ở Á châu, và đề
nghị Mỹ cũng nên hành động
tương tự (nghĩa là nếu
Nga rút khỏi Cam Ranh thì Mỹ cũng nên rút khỏi
Subic Bay). Trong lúc đó thì có tin của tình báo Thái Lan và báo Mỹ
International Herald Tribune cho biết Nga đã rút một
số không quân và tàu ngầm khỏi
Cam Ranh.
Trước
tình huống ấy,
từ cuối tháng 1/1988, hải quân Trung Quốc
và Việt Nam đã vờn nhau ở bãi South Johnson Reef,
rồi đến
tháng 3/1988 hải quân Trung Quốc,
sau một trận đụng độ, đã chiếm
South Johnson Reef và 6 bãi và đảo
san hô khác, đặt
chân đứng
trên quần đảo Trường Sa. Năm 1995 Trung Quốc
chiếm thêm bãi Mischief Reef trước sự
phản đối
của Philippines.
Trong khi
Mỹ bị sa lầy vì chiến
tranh Afghanistan và Irak, Trung Quốc bành trướng
ảnh hưởng vào Đông Nam Á với
chiêu bài “trỗi dậy hòa bình” và “phát triển hòa bình” bằng
chính sách hợp tác kinh tế -
chính trị. Đồng thời, tiếp
tục thăm dò cơ hội kiểm soát Biển Đông.
Tháng 2/
1992, Trung Quốc ban hành luật tuyên bố
toàn biển Nam Trung Hoa là lãnh thổ của
họ.
Tháng
1/2005, tàu Trung Quốc bắn vào hai tàu đánh cá của Việt Nam phát xuất
từ Thanh Hóa, và từ đó tiếp tục sách nhiễu, tấn
công, giam giữ các ngư
thuyền ngoại quốc,
nhât là của Việt Nam, đi vào vùng tranh chấp.
Tháng
6/2007, tàu hải giám Trung Quốc đâm vào tàu Việt
Nam ở biển Đông. Tháng
3/2009, tầu Trung Quốc sách nhiễu
tàu quan sát của Mỹ USS Impeccable khi tàu này thực hiện
công tác trong vùng lưu thông tự
do.
Khi
Mỹ "chuyển trục"
Tháng
5/2009, để kịp thời hạn
của luật biển,
Trung Quốc chính thức công bố đường lưỡi bò gây phản ứng
của các quốc gia tranh chấp
và thúc đẩy
chính sách chuyển trục
của Mỹ. Trung Quốc tuyên bố
Biển Nam Trung Hoa thuộc “quyền
lợi cốt lõi của Trung Quốc” trong khi Mỹ
tuyên bố có “quyền lợi quốc gia” trong việc
bảo vệ tự do lưu thông trên biển.
Từ đó, Trung
Quốc có nhiều hành động tích cực hơn
mà nhiều nước
gọi là hành động
khiêu khích để vừa
thăm dò phản ứng của Mỹ,
vừa áp đặt
mục tiêu của mình, từng bước
thay đổi
nguyên trạng ở vùng biển
tranh chấp, như:
- đơn
phương ra lệnh cấm đánh cá trùm lên vùng tranh chấp
vào mỗi mùa hè và tăng thời gian cấm
từ 2 lên 3 tháng, đồng
thời gửi tàu hải giám ra biển thi hành lệnh
cấm ấy.
-cắt
giây cáp của tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam.
-phản đối và đe dọa các công ty ngoại quốc
cộng tác với Việt Nam trong việc
thăm dò và khai thác dầu khí trong vùng tranh chấp do Việt
Nam kiểm soát, nhưng lại
thực hiện những
việc đó trong vùng tranh chấp mà Trung Quốc
kiểm soát.
-nhân sơ hở của
Philippines, Trung Quốc chiếm Scarborough Shoal.
-tránh đụng
độ với
Mỹ, chia rẽ các nước
ASEAN.
RFI: Liệu Hoa Kỳ có để cho Bắc Kinh thực hiện ý đồ của họ hay không? Bằng cách nào?
Giáo
sư Nguyễn Mạnh
Hùng:
Chính
sách công bố của Hoa Kỳ gồm mấy điểm chính sau đây :
- Hoa Kỳ
không có ý kiến trong việc tranh chấp
chủ quyền và quyền
chủ quyền lãnh thổ
giữa các nước Á châu.
- Hoa Kỳ
đòi quyền tự do lưu thông trong vùng biển
Nam Trung Hoa.
- Hoa Kỳ
chống việc sử dụng
vũ lực và khuyến khích giải
pháp điều đình để
giải quyết tranh chấp.
- Hoa Kỳ
sẵn sàng giúp các nước Á châu tăng cường
khả năng phòng thủ.
Chính
sách này nhằm phục vụ mục
tiêu chiến lươc
của Hoa Kỳ : Duy trì
thế độc
tôn hải quân của mình trong các vùng biển quan trọng
và không để
cho Trung Quốc độc
chiếm biển Nam Trung Hoa.
Tạo
thế đa cực tại Á châu-Thái Bình Dương, không để cho Trung Quốc đẩy mình ra khỏi môt khu vực
có tầm quan trong chiến lược
và kinh tế hàng đầu trong thế kỷ
21.
RFI: Các nước trong vùng phải làm gì để "ngăn cản Trung Quốc đạt mục tiêu?
Giáo
sư Nguyễn Mạnh
Hùng:
Muốn
thực hiện mục
tiêu trên, Hoa Kỳ phải có chân đứng
ở trên lục địa Á châu, nghĩa là Hoa Kỳ cần
có đồng
minh (allies) và đối
tác (partners) ở Á châu. Vì thế,
không những Hoa Kỳ cần được các quốc gia Á châu tiếp
nhận mà những nước cảm
thấy bị Trung Quốc chèn ép phảI
chứng tỏ họ có quyết
tâm chống sự
chèn ép ấy đồng
thời sẵn sàng chia sẻ gánh nặng
phòng thủ bằng
cách tăng cường khả năng phòng vệ của
chính mình.
Sự điều
chỉnh chính sách ngoại giao của
Nhật Bản gần đây là một thí dụ điển hình: giải quyết
dứt khoát vấn đề căn cứ
quân sự Mỹ ở Okinawa, tăng ngân sách quốc phòng, lần đầu tiên công bố sách lược
an ninh quốc gia bỏ chính sách nước đôi, vạch
rõ “những cố gắng
của Trung Quốc nhằm
thay đổi
nguyên trạng bằng
cưỡng chế” và cam kết sẽ
phản ứng “bình tĩnh và cương quyết trước
sự bành trướng nhanh chóng và tăng cường
các hoạt động của hải
lực và không lực Trung Quốc
.”
Đối
với các nước nhỏ ở Đông Nam Á, tốt
nhất thì bên trong mỗi nước
phải tăng cường nội
lực, bên ngoài phải đoàn kết
và thống nhất lập
trường để tạo
khả năng mặc cả tập
thể với Trung Quốc, trở
thành trái đệm
trong thế cạnh tranh giữa Trung Quốc
và Hoa Kỳ, tránh việc tái xuất
hiện của một hình thức chiến
tranh lạnh mới với
thi đua vũ trang, liên minh quân sự, và phân vùng ảnh hưởng.
Điều
này rất khó thực hiện. Nhưng
nếu không thực hiện được thì mỗi nước nhỏ phải
theo giải pháp cá nhân, sắp hàng sau mỗi
nước lớn, không giữ được thế ngoại
giao uyển chuyển và độc lập của mình.
RFI: Việt Nam từ 1974, đã mạnh hơn hay yếu đi trong bảo vệ chủ quyền biển đảo?
Giáo
sư Nguyễn Mạnh
Hùng:
Trong tương
quan lực lượng giữa các nước
tranh chấp, khi một nước
mạnh hơn thì nước
kia tương đối
sẽ yếu hơn. Nước yếu
phải tìm được đối trọng khả tín (như đoàn kết
ASEAN, cam kết của Mỹ) để lập
lại quân bình lực lượng.
Xét theo tiêu chuẩn này thì dù Việt
Nam có cố gắng trong những năm gần đây, nhưng
tương đối
yếu hơn trong tương quan lực
lượng và khả năng mặc cả với
Trung Quốc. Tình trạng này không phải
là không thể thay đổi được.
RFI: Là chuyên gia độc lập, giáo sư nhận định ra sao về tình trạng người Việt Nam quan tâm đến đất nước lên tiếng báo động nguy cơ xâm lược từ phương bắc lại bị tù hay gặp khó khăn?
Giáo
sư Nguyễn Mạnh
Hùng:
Chính quyền
Cộng sản hiện
nay ở trong cái thế Mỹ gọi
là “between a rock and a hard place” tức
là “tiến thoái lưỡng nan”. Ở Việt nam, người biểu
tình có hai khả năng : thứ
nhất, mới đầu họ chống Trung Quốc nhưng
mà tình thế có thể
trở thành chống lại
chính quyền cộng
sản. Thí dụ như ở Thiên An Môn (1989) lúc đầu
sinh viên biểu tình chống
tham nhũng, đòi cải tổ kinh tế. Đùng một
cái, biến thành đòi hỏi
chính trị thì cái đó (chính quyền)
họ rất sợ.
Điểm
thứ hai là chính quyền Việt
Nam nể mặt Trung Quốc. Trung Quốc đang thúc đẩy tinh thần bài ngoại
lớn lắm thành ra nếu mà Việt
Nam có biểu tình chống Trung Quốc
thì Trung Quốc cũng có biểu
tình lớn hơn,
gây ra những căng thẳng
mà Việt Nam không có khả năng đối
phó.
Do đó họ
(Việt Nam) không dám cho biểu tình đi xa. Mấy
năm trước (2011) cả mùa hè ở Hà Nội đã có biểu
tình nhiều lần.
Họ có tìm cách đàn áp nhưg họ có điều đình. Nếu
họ thật tình đàn áp thì khó có biểu tình.
RFI: Một liên minh
khu vực có phải là giải pháp thượng sách để Trung Quốc bớt hung hăng ? Phải chăng Nhật Bản đang thực hiện kế hoạch này ?
Giáo
sư Nguyễn Mạnh
Hùng:
Hiện
nay thì không ai muốn nói đến “liên minh quân sự” cả bởi
vì nó có tính cách tạo ra căng thẳng
chiến tranh lạnh. Nhưng
mà những “liên minh bán chính thức” đang bắt đầu hình thành hoặc “cộng
tác quân sự” thì đã được hình thành. Dần dần,
đối
với Mỹ các liên minh quân sự được củng cố với
Nhật, với Đại Hàn, với Úc… đã bày trận
ra rồi.
Còn đối
với Asean, là những nước nhỏ
cho nên không muốn làm cái chuyện
người ta gọi là “cỡi
voi với đức ông”. Đi với
nước lớn thì thường thường bị
phụ thuộc. Và đi với
nước này thì bị nước
kia giận thành ra họ đứng trung lập, muốn “vai trò trung tâm”. Mà nếu
Asean muốn đóng vai trò trung tâm thì họ phải là cái khối đoàn kết.
Asean đang cố gắng
làm chuyện đó nhưng
cho tới nay chưa làm đến nơi đến
chốn nhất là không trở
thành đối
lực với Trung Quốc được. Nhưng nếu
Asean làm được
chuyện này thì Trung Quốc phải
nể Asean. Mà Trung Quốc nể
Asean thì có dịp để Mỹ dấn
thân sâu hơn vào vùng này để cân bằng
lực lượng.
Asean có
thể đứng
giữa hai khối lớn để tránh tình trạng chiến
tranh lạnh nếu không Asean sẽ
phải chọn đi nước đôi.
Singapore chẳn hạn một đường
hô là không chiến tranh lạnh,
họ phải đoàn kết Asean. Nhưng mặt khác thì để cho Mỹ có hiện
diện hải quân tại Singapore.