Nhân Quyền là gì?(PHẦN I)

TÓM LƯỢC VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI
Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế,
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 3/2008
TÓM TẮT PHỔ QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Sâu thẳm trong tư duy và tâm hồn của nhân loại là niềm tin chắc chắn rằng mỗi người và tất cả mọi người đều có các quyền, trong đó có quyền tự do không bị áp bức, quyền tự do lựa chọn và không phải chịu những hành vi tàn bạo. Theo bản năng, hầu hết mọi người đều cảm nhận như vậy, ngay cả khi họ không tin là có thể dễ dàng giành được những quyền đó. Trong suốt chiều dài lịch sử, hầu hết các xã hội chỉ trao những quyền đó cho một số ít người may mắn. Châu Âu thế kỷ XVIII xuất hiện khái niệm “luật tự nhiên” – dựa trên một trật tự chung – trao những quyền đó cho tất cả mọi người. Triết lý đó có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc Cách mạng Mỹ năm 1776, và những khái niệm
trong Hiến pháp Mỹ, một văn kiện cho đến nay vẫn điều chỉnh mọi bộ luật của Mỹ. Tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực xác định và ủng hộ nhân quyền. Ở đâu cũng vậy, cốt lõi của khái niệm này là giống nhau, đó là: nhân quyền là các quyền mà mỗi con người đều có đơn giản là vì họ là con người. Nhân quyền là của mọi người và bình đẳng cho mọi người. Nhân quyền cũng là những quyền bất khả xâm phạm. Các quyền này có thể bị trì hoãn – một cách chính đáng hay sai trái, ở nhiều nơi nhiều lúc – song ý tưởng về các quyền cố hữu không thể bị phủ nhận. Nếu mất đi những quyền này, con người sẽ không còn là con người nữa.
TIẾN BỘ QUA CÁC THẾ KỶ
Theo truyền thống, tất cả các nhóm người từ các bộ lạc sinh sống nơi núi rừng tới người dân thành thị đều có các quan niệm về công lý, sự bình đẳng, phẩm giá và sự tôn trọng. Tuy nhiên, quan niệm rằng con người – đơn giản bởi vì họ là con người – có những quyền bất khả xâm phạm nhất định, có thể dùng để bảo vệ bản thân họ trong xã hội và trước những kẻ cai trị vẫn là quan niệm của thiểu số trong kỷ nguyên trước năm 1500. Nhiều xã hội tiền hiện đại cho rằng người cai trị có nghĩa vụ cai quản một cách hợp lý và vì lợi ích của mọi người. Tuy nhiên, người ta cho rằng nghĩa vụ này xuất phát từ mệnh lệnh của Đấng Tối cao hoặc xuất phát từ truyền thống, chứ không dựa trên khái niệm các quyền của cá nhân mà người dân thường có thể dựa vào để bảo vệ bản thân trước những kẻ cai trị bất công.
Lý thuyết dành cho một số người
Người đầu tiên được cho là đã phát triển một lý thuyết toàn diện về nhân quyền là triết gia người Anh John Locke (1632-1704). Locke cho rằng người dân hình thành nên các xã hội, các xã hội hình thành nên các chính phủ để đảm bảo quyền được hưởng các quyền “tự nhiên”. Locke định nghĩa chính phủ là một “khế ước xã hội” giữa kẻ cai trị và người bị trị. Ông cho rằng công dân chỉ có nghĩa vụ trung thành với những chính phủ bảo vệ các quyền của họ. Thậm chí những quyền này có thể được ưu tiên hơn so với những đòi hỏi và lợi ích khác của chính phủ. Tính hợp pháp của chính phủ chỉ có được nếu tôn trọng và bảo vệ một cách có hệ thống các quyền của công dân.
Tuy nhiên, lý thuyết của Locke cũng có những hạn chế. Mặc dù cách viết của ông hàm ý các quyền này có tính phổ quát, nhưng thực ra ông không xét tới quyền của tất cả mọi người. Trọng tâm thực sự của ông là bảo vệ quyền của nam giới châu Âu, những người có sở hữu tài sản. Trong khi đó, phụ nữ, những người bản địa, người hầu, lao động được trả lương không được công nhận là những người được hưởng đầy đủ các quyền. Dù vậy, những tư tưởng của Locke và những người khác cùng thời với ông là một bước đột phá quan trọng.
Mở rộng các quyền con người
Rất nhiều cuộc đấu tranh chính trị lớn trong hai thế kỷ qua liên quan đến việc mở rộng một loạt quyền được bảo vệ. Xu hướng này bao gồm mở rộng quyền bầu cử cho mọi công dân, cho phép người lao động được đấu tranh đòi tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc, và xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử vì giới tính và chủng tộc. Trong tất cả các cuộc đấu tranh này, các nhóm bị áp bức đã sử dụng các quyền tự do hạn chế của họ để đấu tranh đòi sự công nhận pháp lý đối với các quyền cơ bản vẫn bị phủ nhận. Trong mỗi cuộc đấu tranh, cốt lõi của lập luận đưa ra là “chúng ta” chứ không chỉ “các anh” mới là con người. Điều đó có nghĩa là tất cả chúng ta đều có các quyền cơ bản giống nhau, được nhà nước tôn trọng và quan tâm như nhau. Việc những lập luận này được chấp nhận đã dẫn tới những thay đổi chính trị xã hội cấp tiến trên toàn thế giới.

Trên toàn cầu, chế độ nào phủ nhận các quyền con người cơ bản của công dân, chế độ đó sẽ không ổn định lâu dài. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô chính là công dân ở khối các nước cộng sản càng ngày càng không thể chấp nhận thực tế là các quyền con người được quốc tế công nhận bị phủ nhận một cách có hệ thống. Ở Nam và Trung Mỹ, các chính quyền quân sự áp bức đã sụp đổ trong những năm 1980. Ở châu Á và châu Phi, tự do hóa và dân chủ hóa diễn ra không suôn sẻ nhưng đó là một thực tế. Ví dụ Hàn Quốc và Nam Phi là hai quốc gia điển hình đã đạt được những tiến bộ về nhân quyền. Bài học trong thời gian qua cho thấy ở đâu người dân có cơ hội lựa chọn, ở đó họ chọn các quyền con người được quốc tế công nhận. Mặc dù còn khó khăn, trở ngại, nhưng chúng ta đang sống trong một thế giới mà ngày càng ít các chính phủ dám tước bỏ của người dân quyền tự do lựa chọn đó.

Được tạo bởi Blogger.