Tóm lược về DÂN CHỦ
Ấn phẩm
của Chương trình thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Nội dung tiếng Anh của ấn phẩm này có trên Internet tại địa
chỉ:
DÂN
CHỦ LÀ GÌ?
Dân chủ là
một thuật ngữ mà ai cũng biết nhưng vẫn bị hiểu và dùng sai ở thời điểm mà các
nhà độc tài, các chế độ độc đảng và lãnh đạo các cuộc đảo chính quân sự đòi dân
chúng ủng hộ vì tự cho rằng mình bảo vệ dân chủ. Tuy nhiên, sức mạnh của ý
tưởng dân chủ vẫn phát triển trong suốt chiều dài lịch sử với nhiều biến cố.
Các chính phủ dân chủ dù phải đối mặt với nhiều thách thức, vẫn tiếp tục tiến
bộ và lan rộng trên toàn thế giới.
Dân chủ –
theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhân dân” – về cơ bản được định nghĩa là một
hình thức chính phủ trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Dân chủ có
thể do người dân trực tiếp thực thi. Ở các xã hội lớn hơn, dân chủ được thực
thi bởi các quan chức do nhân dân bầu ra. Hay theo như câu nói nổi tiếng của
Tổng thống Abraham Lincoln, dân chủ là chính phủ “của nhân dân, do dân và vì
dân”.
Tự do và
dân chủ thường được dùng thay thế cho nhau. Thực ra hai khái niệm này không
đồng nghĩa. Dân chủ không chỉ là một loạt ý tưởng và các nguyên tắc về tự do,
mà còn bao hàm cả những thực tiễn và các tiến trình đã được hình thành trong
suốt chiều dài lịch sử vốn phức tạp. Dân chủ là sự thể chế hóa tự do.
Cuối cùng,
người dân sống trong một xã hội dân chủ phải phục vụ với tư cách là người bảo
vệ chính quyền tự do của họ và hướng tới những lý tưởng được đưa ra trong lời
nói đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu của Liên Hợp Quốc, đó là “thừa nhận
phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng bất khả xâm phạm của mọi thành viên
trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên
thế giới”.
NHỮNG ĐẶC
ĐIỂM CỦA DÂN CHỦ
Dân chủ
không chỉ đơn thuần là một loạt thể chế quản lý cụ thể. Dân chủ dựa trên nhóm
giá trị, quan điểm và thực tiễn đã được nhận thức rõ. Tất cả các giá trị, quan
điểm và thực tiễn đó được thể hiện dưới những hình thức khác nhau tùy theo nền
văn hóa và các xã hội trên thế giới. Các nền dân chủ phải dựa trên những nguyên
tắc cơ bản chứ không phải những thực tiễn thống nhất.
Những đặc
điểm dân chủ cơ bản
- • Dân chủ là hình
thức chính phủ trong đó quyền lực và trách nhiệm công dân do công dân trưởng
thành trực tiếp thực hiện hoặc thông qua các đại diện của họ được bầu lên
một cách tự do.
- • Dân chủ dựa trên
các nguyên tắc đa số cai trị và các quyền cá nhân. Các nền dân chủ chống lại
các chính phủ trung ương tập quyền và phi tập trung hóa chính quyền ở cấp
khu vực và địa phương, với nhận thức rằng tất cả các cấp độ chính quyền đều
phải được tiếp cận và phải đáp ứng người dân khi có thể.
- • Các nền dân chủ
nhận thức rằng một trong những chức năng chính của họ là bảo vệ các quyền
con người cơ bản như tự do ngôn luận và tự do tôn giáo; quyền được pháp luật
bảo vệ bình đẳng và cơ hội được tổ chức và tham gia đầy đủ vào đời sống
kinh tế, chính trị và văn hóa của xã hội.
- • Các nền dân chủ
thường xuyên tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng cho công dân ở độ
tuổi bầu cử tham gia.
- • Công dân ở một nền dân chủ không chỉ có các quyền, mà
còn có trách nhiệm tham gia hệ thống chính trị. Đổi lại, hệ thống chính trị
đó bảo vệ các quyền lợi và sự tự do của họ.
• Các xã hội dân chủ cam kết với
các giá trị khoan dung, hợp tác và thỏa hiệp. Theo lời của Mahatma Gandhi:
“Không khoan dung là biểu hiện của tình trạng bạo lực và cản trở phát triển
tinh thần dân chủ thực sự”.
Hai hình
thức dân chủ
Có hai
loại hình dân chủ cơ bản, đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Trong
nền dân chủ trực tiếp, công dân có thể tham gia quyết định công việc chung mà
không có sự can thiệp của các quan chức
được bầu
lên hoặc được bổ nhiệm. Hình thức dân chủ trực tiếp thực tế nhất nếu áp dụng
cho một nhóm ít người như một tổ chức cộng đồng, hội đồng bộ lạc, hoặc đơn vị
địa phương của một liên đoàn lao động. Thành viên các nhóm này có thể gặp gỡ
nhau để bàn bạc các vấn đề và đi đến quyết định bằng sự đồng thuận hoặc biểu
quyết đa số. Bên cạnh đó, một số bang ở Mỹ cho phép đưa ra trên phiếu bầu “đề
xuất” và “trưng cầu dân ý” – yêu cầu thay đổi luật – hoặc yêu cầu bầu lại các
quan chức đã được bầu
trong các
cuộc bầu cử bang. Những hoạt động này là biểu hiện của hình thức dân chủ trực
tiếp, tức là bày tỏ ý chí của đại bộ phận dân chúng. Có nhiều thực tiễn khác
mang yếu tố của nền dân chủ trực tiếp. Ở Thụy Sĩ, nhiều quyết định chính trị
quan trọng về các vấn đề, trong đó có y tế, năng lượng và việc làm, là những
vấn đề lấy biểu quyết của dân chúng cả nước. Một số người có thể cho rằng
Internet đang tạo ra những hình tức dân chủ trực tiếp mới, vì nó cho phép các
nhóm chính trị gây quỹ cho sự nghiệp của họ bằng cách trực tiếp lôi cuốn những
người cùng chung chí hướng.
Tuy nhiên,
ngày nay cũng như trong quá khứ, hình thức phổ biến nhất của dân chủ – dù là
của một hành phố với 50.000 dân hay một quốc gia 50 triệu dân – là hình thức
dân chủ đại diện. Công dân bầu lên các quan chức để đưa ra các quyết định chính
trị, xây dựng luật và điều hành các chương trình vì lợi ích chung.
Nguyên tắc
đa số và quyền thiểu số
Tất cả các
nền dân chủ đều là những hệ thống trong đó công dân tự do đưa ra các quyết định
chính trị theo nguyên tắc đa số. Theo lời của nhà văn Mỹ E.B. White: “Dân chủ
là một niềm tin rằng đa số mọi người đều đúng trong hầu hết các trường hợp”.
Bản thân nguyên tắc đa số không tự động mang tính dân chủ. Ví dụ, không thể nói
một hệ thống là công bằng nếu nó cho phép 51% dân số đàn áp 49% dân số còn lại
nhân danh đa số. Trong một xã hội dân chủ, nguyên tắc đa số phải gắn với việc
đảm bảo các quyền của cá nhân con người. Đổi lại, các quyền của người thiểu số
và những người bất đồng sẽ được bảo vệ – dù đó là những người thiểu số, tôn
giáo hay đơn giản là những người thua trong các cuộc tranh luận chính trị.
Quyền của các nhóm thiểu số không phụ thuộc vào thiện chí của đa số và cũng
không bị tước bỏ bởi nguyên tắc đa số. Quyền của các nhóm thiểu số được bảo vệ
bởi vì luật pháp và các thể chế dân chủ bảo vệ quyền của mọi công dân. Các nhóm
thiểu số phải tin tưởng chính phủ bảo vệ các quyền và sự an toàn của họ. Một khi
điều này được thực hiện, các nhóm đó có thể tham gia và đóng góp vào việc xây
dựng các thể chế dân chủ của đất nước. Nguyên tắc đa số và quyền thiểu số là
đặc trưng của tất cả các nền dân chủ. Những khác biệt về lịch sử, văn hóa, dân
số và kinh tế không ảnh hưởng đến những đặc trưng này.
Đa nguyên
và xã hội dân chủ
Trong một
nền dân chủ, chính phủ chỉ là một đầu mối trong mạng lưới xã hội gồm rất nhiều
thể chế công và tư, các cơ quan luật pháp, các đảng phái chính trị, các tổ chức
và các hiệp hội. Sự đa dạng này gọi là đa nguyên. Điều này có nghĩa là các nhóm
và các thể thế trong một xã hội dân chủ không phải phụ thuộc vào chính phủ mới
được tồn tại, mới mang tính hợp pháp hoặc mới có quyền lực. Hầu hết các xã hội
dân chủ đều có hàng ngàn
các tổ chức tư nhân ở cấp địa
phương và cấp bang. Nhiều tổ chức trong số này có vai trò trung gian giữa các
cá nhân và các thể chế xã hội và chính phủ phức tạp của xã hội, thực hiện những
vai trò không phải của chính phủ và mang đến cho cá nhân cơ hội để trở thành
một phần trong xã hội mà không cần phải tham gia vào chính phủ.
Trong một
xã hội độc tài, hầu hết những tổ chức như vậy sẽ bị kiểm soát, kiểm duyệt, theo
dõi và nếu không thì phải chịu trách nhiệm trước chính phủ. Ở một nền dân chủ,
theo luật pháp quy định, quyền lực của chính phủ được xác định rõ và rất hạn
chế. Do vậy, các tổ chức tư nhân về cơ bản không chịu sự kiểm soát của chính
phủ. Trong khu vực tư nhân bận rộn này của xã hội dân chủ, công dân có thể tìm
kiếm khả năng tự hoàn thành ước nguyện của mình và thực hiện trách nhiệm đối
với một cộng đồng mà
không chịu
sự kiểm soát có thể rất mạnh từ phía nhà nước hoặc phải tuân theo ý chí của
những người có ảnh hưởng, quyền lực hoặc tuân theo đa số.
CÁC QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ
Các nền
dân chủ dựa trên nguyên tắc: chính phủ tồn tại để phục vụ nhân dân. Nói cách
khác, người dân là những công dân của nhà nước dân chủ, chứ không phải là những
người bị giám sát. Do nhà nước bảo vệ các quyền của công dân, nên đổi lại công
dân trung thành với nhà nước. Ngược lại, trong hệ thống chuyên quyền, nhà nước
yêu cầu dân chúng phải trung thành và phục vụ nhà nước mà không có nghĩa vụ có
đi có lại nào để đảm bảo người dân thuận theo những hành động của nhà nước.
Các quyền
cơ bản
Mối quan
hệ giữa nhà nước và công dân là nhân tố cơ bản của nền dân chủ. Theo Tuyên ngôn
Độc lập Mỹ của Thomas Jefferson năm 1776:
Sự thật
hiển nhiên là mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những quyền này, các chính phủ phải do
dân bầu ra, quyền lực là quyền lực của nhân dân.
Quan trọng
hơn, ở các nền dân chủ, các quyền cơ bản hay bất khả xâm phạm này bao gồm quyền
tự do ngôn luận và bày tỏ, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do hội họp và
quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Đây không phải là một danh sách
toàn diện các quyền mà công dân được hưởng ở một nền dân chủ, mà là một tập hợp
các quyền chủ yếu và không thể thiếu mà mỗi chính phủ dân chủ phải tôn trọng
nếu muốn xứng đáng được gọi là chính phủ dân chủ. Do các quyền này tồn tại độc
lập với chính phủ, nên theo quan điểm của Jefferson, chúng phải được xây dựng
thành luật và không bị chi phối bởi ý muốn nhất thời của đa số cử tri.
Tự do ngôn luận, hội họp và biểu tình
Tự do ngôn
luận và bày tỏ, đặc biệt về các vấn đề chính trị và xã hội, là nguồn sinh khí
của bất cứ nền dân chủ nào. Các chính phủ dân chủ không kiểm soát nội dung các
phát biểu nói hoặc viết. Do vậy, ở các nền dân chủ luôn tồn tại những quan điểm
khác nhau, những ý kiến và ý tưởng trái ngược nhau. Các nền dân chủ có xu hướng
phức tạp.
Dân chủ
phụ thuộc vào việc công dân cần có tri thức, hiểu biết và việc tiếp cận thông
tin cho phép họ tham gia đầy đủ nhất có thể vào đời sống chung của xã hội và
chỉ trích các quan chức chính phủ hay các chính sách bất hợp lý và mang tính áp
bức. Công dân và các đại diện của họ công nhận rằng nền dân chủ phụ thuộc vào
sự tiếp cận một cách rộng rãi nhất có thể đối với các ý tưởng, dữ liệu và quan
điểm không bị kiểm duyệt. Để người dân tự do quản lý bản thân, họ phải được tự do
bày tỏ chính kiến một cách cởi mở, công khai và liên tục – cả nói lẫn viết.
Bảo vệ
quyền tự do ngôn luận là cái được gọi là “quyền phủ định”, theo đó chính phủ
không được hạn chế quyền tự do ngôn luận. Giới chức ở một nền dân chủ không can
thiệp vào nội dung phát biểu dù nói hay viết.
Sự phản
kháng là thước đo đối với mỗi nền dân chủ. Do vậy quyền hội họp hòa bình là
thiết yếu và là một phần thống nhất trong việc thúc đẩy tự do ngôn luận. Xã hội
dân sự cho phép những người bất đồng về các vấn đề được tranh luận sôi nổi. Ở
nước Mỹ hiện đại, ngay cả những vấn đề cơ bản như an ninh quốc gia, chiến tranh
và hòa bình đều được thảo luận tự do trên báo chí và trên các phương tiện phát
thanh truyền hình. Qua đó, người những người phản đối chính sách đối ngoại của
chính quyền dễ dàng công khai quan điểm của mình.
Tự do ngôn
luận là một quyền cơ bản, nhưng không phải là tuyệt đối và không thể viện dẫn
để kích động bạo lực. Tội vu khống và phỉ báng nếu được chứng minh sẽ do tòa án
xử lý. Ở các nền dân chủ, nếu muốn cấm phát ngôn hay các buổi tụ họp được cho
là có thể kích động bạo lực, làm tổn hại danh tiếng người khác hoặc nhằm lật đổ
một chính phủ hợp hiến, thì phải chứng minh được mức độ đe dọa lớn của những
hành động đó.
Nhiều nền
dân chủ cấm phát ngôn gây phân biệt chủng tộc hoặc hiềm thù sắc tộc. Tuy nhiên,
thách thức với tất cả các nền dân chủ là làm sao để cân bằng giữa việc bảo vệ
tự do ngôn luận và hội họp, đồng thời phải xử lý những phát biểu thực sự kích
động bạo lực, đe dọa, hoặc lật đổ các thể chế dân chủ. Người dân có thể phản
ứng trước hành vi của một quan chức một cách công khai và mạnh mẽ; nhưng việc kêu
gọi ám sát quan chức đó lại là phạm tội.
Tự do tôn giáo và khoan dung
Mọi công
dân phải được tự do tín ngưỡng. Tự do tôn giáo bao gồm quyền hành đạo một mình
hoặc với những người khác, ở nơi công cộng hoặc riêng tư, hoặc cả quyền không
theo tôn giáo nào cả và tham gia vào các buổi lễ tôn giáo, hành đạo và giảng
dạy tôn giáo mà không sợ bị chính phủ hoặc các nhóm khác trong xã hội ngược
đãi. Mọi người đều có quyền hành đạo hoặc hội họp với một tôn giáo hoặc tín
ngưỡng, có quyền xây dựng và duy trì các địa điểm dành riêng cho những hoạt
động này.
Giống với
các quyền con người cơ bản khác, tự do tôn giáo không phải do nhà nước tạo ra
hay ban cho, nhưng nhà nước dân chủ nào cũng phải bảo vệ quyền tự do đó. Mặc dù
nhiều nền dân chủ công nhận có sự tách biệt chính thức giữa nhà thờ và nhà
nước, nhưng những giá trị của chính phủ và tôn giáo không vì thế mà xung đột
căn bản. Chính phủ nào bảo vệ quyền tự do tôn giáo cho mọi công dân thì chắc
chắn bảo vệ được các quyền khác cần thiết để có tự do tôn giáo, chẳng hạn như
quyền tự do ngôn luận và tự do hội họp. Các thuộc địa Mỹ và hầu hết các nhà
nước chính trị thần quyền thế kỷ XVII và XVIII, đã phát triển các thuyết về
khoan dung tôn giáo và thuyết dân chủ thế tục. Ngược lại, một số chế độ độc tài
thế kỷ XX lại nỗ lực xóa bỏ tôn giáo, coi đó là hình thức tự biểu hiện tín
ngưỡng của cá nhân, giống với ngôn luận chính trị. Các nền dân chủ thực sự nhận
thức rằng những khác biệt về tôn giáo của mỗi cá nhân phải được tôn trọng và
vai trò chủ chốt của chính phủ là bảo vệ lựa chọn tôn giáo, ngay cả trong những
trường hợp nhà nước cấm một tín ngưỡng tôn giáo cụ thể. Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa là bản thân tôn giáo có thể là cái cớ để biện minh cho bạo lực
chống lại các tôn giáo khác hoặc chống lại cả xã hội. Tôn giáo được thực thi
trong bối cảnh một xã hội dân chủ nhưng không thể vượt lên trên xã hội.
Trách
nhiệm của công dân
Tư cách
công dân trong một nền dân chủ đòi hỏi sự tham gia, phép lịch sự và sự kiên
nhẫn, tức là đòi hỏi cả quyền lẫn trách nhiệm. Nhà khoa học chính trị Benjamin
Barber đã khẳng định: “Dân chủ thường được hiểu là nguyên tắc đa số và các
quyền ngày càng được hiểu là sự sở hữu tư nhân của mỗi cá nhân… Nhưng như thế
là đã hiểu sai về cả các quyền và về dân chủ”. Để một nền dân chủ thành công,
công dân phải chủ động, chứ không bị động, bởi vì họ biết rằng sự thành công
hay thất bại của chính phủ là trách nhiệm của họ chứ không phải của ai khác.
Tất nhiên là cá nhân thực hiện các
quyền cơ bản như tự do ngôn luận, hội họp và tự do tôn giáo. Nhưng mặt khác, các
quyền – cũng giống như các cá nhân – không tự hoạt động một cách biệt lập. Các
quyền được thực hiện trong khuôn khổ xã hội, chính vì vậy mà quyền và nghĩa vụ
luôn đi liền với nhau.
Chính phủ
dân chủ – do dân bầu ra và có trách nhiệm trước nhân dân – bảo vệ các quyền cá
nhân, từ đó công dân trong một nền dân chủ có thể thực hiện nghĩa vụ và trách
nhiệm công dân của mình, góp phần củng cố xã hội.
Ít nhất
thì công dân cũng phải tự nhận thức về những vấn đề quan trọng mà xã hội đang
phải đối mặt. Chỉ có vậy họ mới có thể biểu quyết một cách sáng suốt. Một số
nghĩa vụ như tham gia vào bồi thẩm đoàn tại các tòa án dân sự, hình sự hoặc tòa
án quân đội, có thể do luật pháp quy định, nhưng cũng có thể là tự nguyện.
Bản chất
của hành động dân chủ là sự tham gia của công dân vào đời sống chính trị của
cộng đồng và đất nước họ một cách tự do, chủ động và hòa bình. Theo học giả
Diane Ravitch, “Dân chủ là một tiến trình, là cách sống và làm việc. Dân chủ
tiến hóa, chứ không phải bất biến. Dân chủ đòi hỏi công dân phải hợp tác, thỏa
hiệp và khoan dung. Làm sao để dân chủ vận hành là công việc không hề dễ dàng.
Tự do có nghĩa là trách nhiệm, không phải không có trách nhiệm”. Thực thi trách
nhiệm này nghĩa là can dự tích cực vào các tổ chức hoặc theo đuổi những mục
tiêu cụ thể của cộng đồng.
Trên tất
cả, thực thi trách nhiệm trong một nền dân chủ liên quan đến một quan điểm nhất
định, tức là sẵn sàng tin rằng những người khác cũng có quyền giống như bạn.
BẦU
CỬ DÂN CHỦ
Các cuộc
bầu cử tự do và công bằng là yếu tố cơ bản đảm bảo sự đồng thuận của nhân dân,
là trụ cột của nền chính trị dân chủ. Các cuộc bầu cử là cơ chế chủ yếu để
chuyển hóa sự đồng thuận đó thành quyền lực của chính phủ.
Những
thành tố của bầu cử dân chủ
Jeane
Kirkpatrick từng là học giả và cựu đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc đã đưa ra định
nghĩa như sau: “Bầu cử dân chủ không chỉ đơn thuần là hình thức… Chúng là những
cuộc bầu cử cạnh tranh, theo định kỳ, với thành phần tham gia mở và mang tính
quyết định, qua đó các nhà hoạch định chính sách của một chính phủ được nhân
dân bầu lên. Nhân dân có quyền tự do chỉ trích chính phủ, công khai phê phán và
đề xuất các chính sách thay thế.
Bầu cử dân
chủ mang tính cạnh tranh. Các đảng phái chính trị và các ứng cử viên đối lập
phải có quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và đi lại để công khai chỉ trích
chính phủ và đưa ra trước cử tri các chính sách và các ứng cử viên thay thế.
Nếu chỉ cho phép phe đối lập tiếp cận lá phiếu thì chưa đủ. Đảng cầm quyền có
thể có lợi thế vì đang nắm quyền, nhưng các nguyên tắc và thủ tục tranh cử phải
công bằng. Mặt khác, quyền tự do hội họp dành cho các đảng đối lập không ám chỉ
tình trạng lộn xộn hay bạo lực. Đó là tranh luận.
Các cuộc
bầu cử dân chủ diễn ra định kỳ. Các nền dân chủ không bầu lên các nhà độc tài
hay các tổng thống suốt đời. Các quan chức được bầu lên phải có trách nhiệm
trước nhân dân. Nếu muốn tiếp tục được ủy nhiệm nắm quyền, họ phải quay trở lại
với cử tri tại các cuộc bầu cử giữa kỳ và phải đối diện với khả năng không được
bầu.
Các cuộc
bầu cử dân chủ có tính mở. Khái niệm tư cách công dân và cử tri phải đủ rộng để
bao gồm tất cả dân chúng trưởng thành. Một chính phủ được bầu lên bởi một nhóm
nhỏ, không nhiều thành phần tham gia, thì không phải là một nền dân chủ – dù
công việc trong nước vận hành dân chủ đến mức nào đi nữa. Một trong những đặc
điểm quan trọng của dân chủ trong lịch sử là cuộc đấu tranh của các nhóm bị đẩy
ra ngoài lề – các nhóm sắc tộc, chủng tộc hoặc các nhóm tôn giáo thiểu số, phụ
nữ – nhằm giành quyền công dân đầy đủ và cùng với đó là quyền được bầu cử, nắm
giữ các chức vụ và tham gia đầy đủ vào đời sống xã hội.
ác cuộc
bầu cử có tính quyết định. Chúng quyết định giới lãnh đạo của chính phủ trong
một thời gian nhất định. Những quan chức được bầu lên bằng phổ thông đầu phiếu
nắm giữ quyền lực, chứ không đơn thuần chỉ là các nhà lãnh đạo bù nhìn.
Các nền
dân chủ, phát triển dựa trên sự cởi mở và tính trách nhiệm, với một ngoại lệ
quan trọng nhất: bản than việc bầu cử. Để hạn chế tối đa khả năng bị trả thù,
các cử tri ở một nền dân chủ phải được bỏ phiếu kín. Đồng thời, việc bảo vệ
thùng phiếu và kiểm phiếu phải được tiến hành công khai nhất có thể, để công
dân tin tưởng rằng kết quả là chính xác và chính phủ thực sự đã dựa vào “sự
đồng thuận” của họ.
Tôn trọng
đối thủ
Một trong
những khái niệm khó chấp nhận nhất đối với một số người, đặc biệt là ở những
quốc gia mà việc chuyển giao quyền lực thường diễn ra bằng bạo lực, đó là “chấp
nhận đối thủ”. Tuy nhiên, đây là một ý tưởng quan trọng. Nó có nghĩa là về cơ
bản tất cả các bên trong một nền dân chủ đều có chung cam kết đối với những giá
trị cơ bản. Các đối thủ chính trị không nhất thiết phải thích người khác, nhưng
họ phải có thái độ khoan dung với họ và thừa nhận rằng mỗi người đều có một vai
trò quan trọng và hợp pháp. Hơn thế nữa, các nguyên tắc cơ bản của xã hội phải
khuyến khích sự khoan dung và phép lịch sự trong các cuộc tranh luận công khai.
Khi các
cuộc bầu cử đã xong, người thua phải chấp nhận quyết định của cử tri. Nếu đảng
cầm quyền thất bại, đảng đó phải chuyển giao quyền lực hòa bình. Bất chấp người
thắng là ai, cả hai bên phải nhất trí hợp tác trong việc giải quyết những vấn
đề chung của xã hội. Phe đối lập tiếp tục tham gia vào đời sống chung với sự
thừa nhận rằng họ đóng vai trò quan trọng ở bất cứ nền dân chủ nào. Phe đối lập
không phải trung thành với những chính sách cụ thể của chính phủ mà là trung
thành với tính hợp pháp cơ bản của nhà nước và tiến trình dân chủ. Rốt cuộc thì
các cuộc bầu cử dân chủ không phải là một cuộc đấu tranh sinh tồn mà là một
cuộc cạnh tranh để phục vụ.
Quản lý
bầu cử
Ở mỗi nền
dân chủ, cách thức các quan chức được bầu lên rất khác nhau. Ví dụ, ở cấp độ
quốc gia, các nghị sĩ có thể do các các khu vực bầu cử bầu ra – trong đó mỗi
khu vực bầu một đại diện. Quy định này được gọi là hệ thống bầu cử “người thắng
được tất”. Một cách khác, theo hệ thống tỷ lệ đại diện, số đại diện của mỗi
đảng ở cơ quan lập pháp tính theo tổng phiếu bầu trên toàn quốc. Các cuộc bầu
cử cấp tỉnh và địa phương có thể theo mô hình ở cấp quốc gia này.
Dù theo hệ
thống nào đi nữa, các tiến trình bầu cử phải được đánh giá là công bằng và cởi
mở để kết quả bầu cử được công nhận là hợp pháp. Các quan chức phải đảm bảo
quyền tự do rộng mở cho người tham gia đăng ký cử tri hoặc chạy đua vào một
chức vụ; điều hành hệ thống công bằng nhằm đảm bảo việc bỏ phiếu kín nhưng kiểm
phiếu mở, công khai; ngăn chặn gian lận phiếu bầu và nếu cần thiết kiểm lại
phiếu và giải quyết tranh chấp bầu cử.
PHÁP QUYỀN
Trong phần
lớn lịch sử nhân loại, luật pháp đơn giản là ý chí của tầng lớp cai trị. Ngược
lại, các nền dân chủ đã định ra nguyên tắc pháp trị đối với cả kẻ cai trị lẫn
người bị trị.
Bình đẳng
trước pháp luật
Pháp quyền
bảo vệ các quyền kinh tế, chính trị và xã hội cơ bản, đồng thời bảo vệ nhân dân
trước mối đe dọa của chế độ chuyên chế và tình trạng không luật pháp. Pháp
quyền có nghĩa là không một cá nhân nào, cả tổng thống lẫn người dân, được đứng
trên luật pháp. Các chính phủ dân chủ sử dụng quyền lực theo pháp quyền và bản
thân họ chịu những giới hạn mà luật pháp quy định.
Công dân
sống ở các nền dân chủ sẵn sàng tuân theo luật pháp của xã hội bởi vì họ đang
tuân thủ chính những nguyên tắc và quy định của bản thân.
Công lý
được thực hiện tốt nhất khi luật pháp được người dân xây dựng nên và chính họ
phải tuân theo luật pháp đó. Dù giàu hay nghèo, dù là người thuộc phe đa số hay
phe thiểu số, dù là đồng minh chính trị của nhà nước hay là những người đối lập
hòa bình, tất cả đều phải tuân thủ luật pháp.
Công dân
của một nền dân chủ tuân thủ luật pháp bởi vì họ nhận thức rằng, mặc dù gián
tiếp, nhưng họ đang tuân theo chính họ với tư cách là những người làm luật. Khi
luật pháp do nhân dân xây dựng nên và sau đó bản thân họ phải tuân theo luật
pháp đó, thì cả luật lẫn nền dân chủ đều được phục vụ.
Tiến
trình xét xử đúng luật
Ở mọi xã
hội trong lịch sử, những người điều hành hệ thống tư pháp nắm giữ quyền lực có
khả năng lạm dụng quyền lực và trở nên chuyên quyền. Dưới danh nghĩa nhà nước,
các cá nhân bị bỏ tù, bị tịch thu tài sản, bị tra tấn, trục xuất và hành quyết
nhưng không được chứng minh là có tội và thường không bị buộc tội danh chính
thức nào cả. Không một xã hội dân chủ nào cho phép xảy ra tình trạng lạm dụng
như vậy.
Các nhà
nước phải có quyền lực để duy trì trật tự và trừng phạt những hành vi phạm tội,
nhưng thủ tục tố tục theo đó nhà nước thực thi luật phải công khai và rõ rang –
không được xử kín, tùy tiện hoặc bị chính trị hóa – và phải được áp dụng như
nhau đối với tất cả mọi người. Đó chính là quy trình xét xử đúng luật. Để thực
hiện tiến trình xét xử đúng luật, dưới đây là các nguyên tắc đã phát triển ở
các nền dân chủ theo hợp hiến • Cảnh sát không được vào nhà dân lục soát nếu
không có lệnh của tòa án cho thấy có lý do chính đáng để tiến hành lục soát. Ở
một nền dân chủ không có việc cảnh sát mật được gõ cửa các gia đình vào lúc nửa
đêm.
- • Không ai bị giam
giữ nếu không có những cáo buộc rõ ràng, bằng văn bản nêu rõ vi phạm. Hơn
thế nữa, theo quy định về lệnh đình quyền giam giữ, tất cả những ai bị bắt
đều có quyền được đưa ra tòa xử và phải được thả nếu tòa thấy việc bắt giữ
là không có cơ sở.
- • Trước khi xét xử,
không được giam giữ những người bị cáo buộc tội lâu trong tù. Họ có quyền
được xét xử công khai, nhanh chóng và đối chất với nguyên đơn.
- • Các nhà chức
trách phải cho bảo lãnh hoặc thả có điều kiện bị cáo đang chờ xét xử nếu
thấy nghi phạm khó có thể trốn chạy hoặc vi phạm các tội khác.
- • Người dân không bị
ép buộc làm chứng chống lại bản thân. Quy định nhằm ngăn chặn tình trạng tự
phân biệt đối xử miễn cưỡng này phải là quy định dứt khoát. Do vậy,
trong bất cứ hoàn cảnh nào cảnh sát cũng không được tra tấn hoặc xâm phạm
về thể chất lẫn tâm lý đối với nghi phạm.
- • Người dân không bị
kết án hai lần, có nghĩa là không thể bị cáo buộc hai lần cùng một tội
danh nếu họ đã thụ án tại một tòa án.
- • Do có khả năng bị
các nhà chức trách lạm dụng nên cái gọi là luật hồi tố cũng được xây dựng.
Đây là những điều luật đưa ra sau khi xảy ra sự việc, tức là một người vẫn
có thể bị cáo buộc tội danh ngay cả khi hành vi của anh ta ở thời điểm xảy
ra chưa được quy định là phạm tội.
- • Cấm các hình thức
trừng phạt dã man hoặc bất bình thường. Không quy định nào trong số những
quy định này có nghĩa là nhà nước thiếu quyền lực cần thiết để thực thi luật
và trừng phạt người vi phạm. Trái lại, hệ thống tư pháp ở một nền dân chủ
sẽ hiệu quả nếu việc điều hành hệ thống đó được nhân dân đánh giá là công
bằng và bảo vệ được an toàn cá nhân, cũng như phục vụ lợi ích công cộng.
CHỦ NGHĨA HỢP HIẾN
Hiến pháp
– văn kiện khẳng định những nghĩa vụ cơ bản của chính phủ và những hạn chế đối
với quyền lực của nhà nước – là một thiết chế quan trọng đối với bất cứ nền dân
chủ nào.
Các hiến
pháp: Siêu luật
Hiến pháp
quy định những mục đích và khát vọng cơ bản của một xã hội vì lợi ích chung của
người dân. Mọi công dân, kể cả các lãnh đạo nhà nước, phải tuân thủ hiến pháp
quốc gia. Hiến pháp là bộ luật cao nhất của quốc gia.
Hiến pháp
– thường được pháp điển hóa thành một văn kiện riêng biệt – quy định quyền lực
của chính phủ quốc gia, quy định bảo vệ các quyền con người cơ bản và quy định
trình tự hoạt động cơ bản của chính phủ. Các hiến pháp thường được dựa trên
những thực tiễn và tiền lệ chưa được pháp điển hóa trước đó nhưng đã được chấp
nhận rộng rãi. Ví dụ, Hiến pháp Mỹ được dựa trên những khái niệm xuất phát từ
thông luật của Anh, cũng như nỗ lực của các triết gia thế kỷ XVIII nhằm định
nghĩa các quyền con người.
Chủ nghĩa
hợp hiến công nhận rằng chính phủ dân chủ và có trách nhiệm phải chịu những
giới hạn rõ ràng. Bởi vậy, mọi bộ luật phải được soạn thảo phù hợp với hiến
pháp. Ở một nền dân chủ, cơ quan tư pháp độc lập về chính trị cho phép công dân
có quyền đòi thay đổi những bộ luật mà họ cho là không hợp hiến và yêu cầu tòa
án ra phán quyết đối với những hành vi bất hợp pháp của chính phủ hoặc của các
quan chức chính phủ.
Dù bản
chất hiến pháp là lâu dài và có ý nghĩa rất lớn, nhưng vẫn phải có khả năng
thay đổi và thích nghi nếu chúng không muốn trở thành thứ đồ cổ chỉ để ngắm mà
thôi. Hiến pháp lâu đời nhất trên thế giới – Hiến pháp Mỹ – bao gồm 7 điều
khoản ngắn gọn và 27 điều sửa đổi bổ sung. 10 điều sửa đổi bổ sung đầu tiên của
Hiến pháp Mỹ được gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền. Tuy nhiên, văn kiện này cũng là
nền tảng của cấu trúc mang tính “hiến pháp” rộng lớn gồm các quyết định pháp
lý, bộ luật, hành động của tổng thống và những thông lệ đã được phát triển
trong 200 năm qua, góp phần giữ cho Hiến pháp Mỹ phù hợp đến hôm nay.
Nhìn
chung, có hai trường phái liên quan đến tiến trình sửa đổi, hoặc thay đổi hiến
pháp của một quốc gia. Một trường phái cho rằng tốt nhất là đưa ra một quy
trình khó khăn, yêu cầu phải qua nhiều bước và phải có sự chấp thuận của đa số
lớn nếu muốn sửa đổi. Như vậy, hiến pháp sẽ thay đổi không thường xuyên và chỉ
khi nào có những lý do thật bức xúc thì việc thay đổi hiến pháp mới nhận được
sự ủng hộ lớn của dân chúng. Đó là trường phái Mỹ.
Phương
pháp thay đổi hiến pháp đơn giản hơn, mà nhiều nước sử dụng là quy định rằng
bất cứ điều sửa đổi nào đều có thể đưa ra để quốc hội chấp thuận và sau đó cử
tri thông qua tại cuộc bầu cử tiếp theo. Những hiến pháp được sửa đổi theo kiểu
này có thể sẽ rất dài.
Chủ nghĩa liên bang: Phân tán quyền lực
Khi người
dân tự do chọn sống theo một khuôn khổ hiến pháp được nhất trí, khuôn khổ đó có
thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Một số nền dân chủ có các cơ quan
quản lý đơn nhất. Những nền dân chủ khác 0theo hệ thống chính phủ liên bang –
tức là quyền lực được chia sẻ ở cấp độ địa phương, khu vực và quốc gia.
Ví dụ, Mỹ
là một nền cộng hòa liên bang trong đó các bang có vị trí pháp lý của riêng họ
và quyền lực độc lập với chính phủ liên bang. Không giống với sự phân chia
chính trị ở các quốc gia như Anh và Pháp – những nước có cấu trúc chính trị đơn
nhất – ở Mỹ chính quyền liên bang không có quyền xóa bỏ hay thay đổi các bang.
Ở Mỹ, mặc dù quyền lực ở cấp liên bang ngày càng gia tăng đáng kể, nhưng các
bang vẫn có những trách nhiệm quan trọng trong những lĩnh vực như giáo dục, y
tế, giao thông và thực thi luật. Đổi lại, các bang ngày càng đi theo mô hình
liên bang khi trao bớt chức năng cho cộng đồng địa phương, chẳng hạn như quản
lý các trường học và cảnh sát.
Sự phân
chia quyền lực trong hệ thống liên bang không bao giờ là rõ ràng. Các cơ quan
liên bang, bang và địa phương, tất cả đều có các chương trình nghị sự chồng
chéo nhau và thậm chí là xung đột trong những lĩnh vực như giáo dục và luật
hình sự. Tuy nhiên, hình thức liên bang có thể tối đa hóa cơ hội tham gia của
người dân – nhân tố vô cùng quan trọng đối với sự vận hành của xã hội dân chủ.
Người Mỹ cho rằng cấu trúc liên bang của họ bảo vệ được quyền tự trị của cá
nhân.
BA TRỤ CỘT CỦA CHÍNH PHỦ
Như đã
trình bày, thông qua các cuộc bầu cử tự do, công dân của một nền dân chủ chuyển
giao quyền lực cho các nhà lãnh đạo của họ theo quy định của luật pháp. Trong
một nền dân chủ hợp hiến, quyền lực của chính phủ được phân chia để nhánh lập
pháp ban hành luật, nhánh hành pháp thi hành luật và nhánh tư pháp hoạt động
độc lập ngang với hai nhánh trên. Những quy định này đôi khi được gọi là “chia
sẻ quyền lực”. Tuy nhiên trên thực tế, sự phân chia đó hiếm khi rõ ràng và ở
hầu hết các nhà nước dân chủ hiện đại, những quyền này vẫn bị chồng chéo và
được chia sẻ như chúng đã được tách ra. Các cơ quan lập pháp có thể muốn quản
lý các chương trình bằng những quy định chi tiết; các cơ quan hành pháp thường
xuyên tham gia vào hoạt động làm luật chi tiết; cả các nghị sĩ lẫn các quan
chức chính phủ đều tiến hành điều trần theo kiểu tư pháp về hàng loạt vấn đề.
Hành pháp
Ở các nền
dân chủ hợp hiến, quyền hành pháp nhìn chung bị giới hạn ở ba phương diện:
(i) Sự
phân chia quyền lực giữa ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp như đã trình bày
ở trên trong đó ngành lập pháp và tư pháp có thể kiểm soát quyền lực của ngành
hành pháp;
(ii) Các
quy định của hiến pháp về việc bảo vệ các quyền cơ bản và
(iii) Các
cuộc bầu cử theo định kỳ.
Những
người chuyên quyền và những người chỉ trích khác đều hiểu sai khi cho rằng các
nền dân chủ thiếu quyền lực để trấn áp, đồng thời cũng thiếu quyền lực để cai
trị. Quan điểm này hoàn toàn sai lạc: Các nền dân chủ đòi phải giới hạn quyền
lực của chính phủ, chứ không phải họ yếu kém. Quyền hành pháp ở các nền dân chủ
hiện đại nhìn chung được tổ chức theo một trong hai cách sau: hệ thống nghị
viện hoặc tổng thống.
Trong hệ
thống nghị viện, đảng đa số (hoặc liên minh các đảng sẵn sàng cùng nhau nắm
quyền) trong cơ quan lập pháp sẽ thành lập chính phủ, đứng đầu là một thủ
tướng. Ngành lập pháp và hành pháp không hoàn toàn khác biệt với nhau trong hệ
thống nghị viện, do thủ tướng và các thành viên nội các đều là người của quốc
hội; dù vậy nhưng thủ tướng là nguyên thủ quốc gia.
Ngược lại,
trong hệ thống tổng thống, tổng thống thường được bầu lên riêng rẽ từ các thành
viên của cơ quan lập pháp. Cả tổng thống lẫn cơ quan lập pháp đều có cơ sở
quyền lực và các khu vực cử tri riêng, chúng kiểm soát và cân bằng lẫn nhau.
Mỗi hệ
thống đều có những điểm mạnh, điểm yếu về thể chế. Đặc trưng cơ bản của hệ
thống nghị viện mà cho đến nay tạo nên đa số các nền dân chủ chính là khả năng
ứng phó và linh hoạt của chúng. Các chính phủ trong hệ thống nghị viện, đặc
biệt là nếu được bầu lên thông qua tỉ lệ đại diện, có xu hướng hình thành các
hệ thống đa đảng, trong đó ngay cả những đảng nhỏ cũng có đại diện tại cơ quan
lập pháp. Do vậy, các nhóm thiểu số vẫn có thể tham gia vào tiến trình chính
trị ở cấp cao nhất của chính phủ. Nếu như liên minh cầm quyền sụp đổ hoặc đảng
mạnh nhất thất bại, thủ tướng từ chức và một chính phủ mới sẽ được hình thành
hoặc các cuộc bầu cử mới sẽ diễn ra – tất cả điều diễn ra trong khoảng thời
gian ngắn.
Điểm yếu
cơ bản đối với hệ thống nghị viện chính là mặt trái của sự linh hoạt và chia sẻ
quyền lực, đó là tính bất ổn định. Các liên minh đa đảng có thể lỏng lẻo và sụp
đổ ngay khi nổ ra khủng hoảng chính trị, khiến cho các chính phủ cầm quyền chỉ
tồn tại trong thời gian ngắn và không có khả năng giải quyết các vấn đề chính
trị khó khăn. Nói cách khác, các hệ thống nghị viện khác sẽ ổn định nhờ có các
đảng chiếm đa số mạnh.
Đối với hệ
thống tổng thống, điểm mạnh chủ yếu là trách nhiệm trực tiếp, tính liên tục và
sức mạnh. Các tổng thống – được dân bầu lên trong một nhiệm kỳ cố định – có thể
khẳng định quyền lực từ các cuộc bầu cử trực tiếp, bất chấp vị thế của đảng họ
tại quốc hội. Bằng việc xây dựng các nhánh chính quyền riêng rẽ và bình đẳng về
mặt lý thuyết, hệ thống tổng thống muốn xây dựng các thể chế hành pháp và lập
pháp mạnh, mỗi thể chế đều được nhân dân uỷ quyền và có khả năng kiểm soát và
cân bằng lẫn nhau.
Điểm yếu
của các tổng thống và cơ quan lập pháp được bầu lên riêng rẽ là khả năng dẫn
đến bế tắc. Các tổng thống có thể không lôi kéo đủ đồng minh chính trị trong cơ
quan lập pháp để bỏ phiếu thông qua các chính sách mà họ muốn. Tuy nhiên, với
việc sử dụng quyền phủ quyết (trong các trường hợp nhất định đây là quyền được
bác bỏ các luật do quốc hội thông qua), tổng thống có thể ngăn không cho cơ
quan lập pháp ban hành các chương trình làm luật riêng của họ. Nhà khoa học
chính trị Richard Neustadt
đã mô tả
quyền lực của tổng thống Mỹ là “không phải quyền ra lệnh, mà là quyền thuyết
phục”. Neustadt muốn nói rằng tổng thống Mỹ nào muốn Quốc hội ban hành chương
trình nghị sự pháp luật mà được tổng thống ưa thích – hoặc ít nhất là tránh ban
hành những luật mà tổng thống không nhất trí vì được các đối thủ chính trị
thông qua – đều phải có được sự ủng hộ chính trị của dân chúng và có khả năng
lôi kéo liên minh hiệu quả tại Quốc hội.
Lập pháp
Các cơ
quan lập pháp được bầu lên – dù là theo hệ thống nghị viện hay tổng thống – đều
là diễn đàn chủ yếu để soạn thảo, tranh luận và thông qua luật trong một nền
dân chủ đại diện. Những cơ quan này không phải là cái gọi là những quốc hội bù
nhìn, chỉ có việc thông qua những quyết định của một lãnh đạo chuyên quyền.
Các nghị
sĩ có thể chất vấn các quan chức chính phủ về những hành động và quyết định của
họ, phê chuẩn ngân sách quốc gia và thông qua thành viên chính phủ bổ nhiệm vào
tòa án và các bộ. Ở một số nền dân chủ, các ủy ban lập pháp là diễn đàn cho các
nhà làm luật công khai xem xét các vấn đề quốc gia. Các nghị sĩ có thể ủng hộ
chính phủ đang nắm quyền hoặc họ có thể là lực lượng chính trị đối lập đề xuất
những chính sách hoặc các chương trình thay thế.
Các nghị
sĩ có trách nhiệm giải thích quan điểm của họ một cách hiệu quả nhất có thể.
Tuy nhiên, họ phải làm việc trong khuôn khổ đạo đức dân chủ với sự khoan dung,
tôn trọng và thỏa hiệp để có được sự nhất trí có lợi vì lợi ích chung của người
dân, chứ không chỉ vì những người ủng hộ họ về mặt chính trị. Mỗi nghị sĩ phải
tự mình quyết định cách cân bằng giữa lợi ích chung và nhu cầu của bộ phận cử
tri địa phương.
Do thiếu
đặc điểm phân chia quyền lực của hệ thống tổng thống, nên hệ thống nghị viện
phải dựa nhiều hơn vào động lực chính trị bên trong của hệ thống này để kiểm
soát và cân bằng quyền lực của chính phủ. Những động lực này thường là phe đối
lập được tổ chức riêng rẽ “bao vây” chính phủ hoặc cạnh tranh giữa các đảng đối
lập.
Ngành tư pháp độc lập
Các thẩm
phán có chuyên môn và độc lập là nền tảng của một hệ thống tòa án công bằng, vô
tư và được hiến pháp bảo vệ. Sự độc lập này không có nghĩa là các thẩm phán có
thể đưa ra những quyết định dựa trên ý muốn cá nhân họ. Họ phải được tự do đưa
ra các quyết định pháp lý – ngay cả khi những quyết định đó mâu thuẫn với chính
phủ hoặc các đảng có quyền lực khác có liên quan tới vụ việc.
Ở các nền
dân chủ, cấu trúc hiến pháp mang tính bảo vệ và uy tín của ngành tư pháp bảo
đảm sự độc lập trước áp lực chính trị. Do vậy, các phán quyết của ngành tư pháp
mới vô tư, dựa trên thực tiễn vụ việc, các lập luận pháp lý và các luật liên
quan, không bị chính phủ hoặc cơ quan lập pháp áp đặt hạn chế hoặc gây áp lực.
Những nguyên tắc này đảm bảo mọi người đều được bảo vệ bình đẳng trước pháp
luật.
Quyền của
các thẩm phán được xem xét lại các bộ luật và tuyên bố các luật đó vi phạm hiến
pháp là hình thức kiểm soát cơ bản khả năng chính phủ lạm dụng quyền lực – ngay
cả khi chính phủ đó được bầu lên bằng đa số. Tuy nhiên, quyền này đòi hỏi các
tòa án phải được nhìn nhận là độc lập và phi đảng phái và có khả năng đưa ra
quyết định dựa trên luật pháp chứ không phải các tính toán chính trị.
Dù được
bầu lên hay được chỉ định, các thẩm phán đều phải được an toàn trong nghề
nghiệp hoặc nhiệm kỳ theo quy định của luật pháp, để họ có thể đưa ra những
quyết định mà không phải lo ngại những người có quyền lực gây áp lực hoặc tấn
công. Để đảm bảo sự vô tư, không thiên vị của họ, đạo đức tư pháp đòi hỏi các
thẩm phán phải đứng bên ngoài (hoặc náu mình) không được ra quyết định trong
các vụ việc mà họ có xung đột lợi ích cá nhân. Tin tưởng vào sự vô tư, không thiên
vị của hệ thống tòa án – tin tưởng vào việc nó được đánh giá là một nhánh chính
quyền “phi chính trị” – là nhân tố cơ bản quyết định sức mạnh và tính hợp pháp
của ngành tư pháp.
Thẩm phán
ở một nền dân chủ không thể bị bãi nhiệm vì những khiếu nại nhỏ nhặt, hoặc chỉ
là đáp ứng sự chỉ trích chính trị. Thay vào đó, họ chỉ có thể bị bãi nhiệm nếu
vi phạm những tội ác nghiêm trọng hoặc vi phạm luật thông qua thủ tục luận tội
và xét xử kéo dài và nhiều bước (để đưa ra các cáo buộc) tại cơ quan lập pháp
hoặc trước một hội đồng tòa án riêng rẽ.
GIỚI TRUYỀN THÔNG ĐỘC LẬP VÀ TỰ DO
Khi các xã
hội hiện đại phát triển cả về quy mô lẫn tính phức tạp, lĩnh vực thông tin,
liên lạc và tranh luận công khai ngày càng bị các phương tiện truyền thông đã
chi phối, trong đó có phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí, đặc biệt là những
phương tiện truyền thông mới như Internet và truyền hình vệ tinh.
Dù là nhật
ký điện tử hay sách in thì trong xã hội dân chủ chức năng của truyền thông vẫn
có sự chồng chéo, nhưng những chức năng riêng vốn có của nó về cơ bản vẫn giữ
nguyên, đó là tính thông tin và tính giáo dục. Để đưa ra những quyết sách đúng
đắn về chính sách công, người ta cần thông tin chính xác, kịp thời và công
bằng. Tuy nhiên, một chức năng khác nữa của truyền thông là cổ xúy, ngay cả khi
tỏ ra thiếu khách quan. Khán giả của các phương tiện truyền thông có thể tiếp
cận những ý kiến khác nhau, thậm chí xung đột nhau, từ đó nắm bắt nhiều loại
quan điểm khác nhau. Vai trò này của truyền thông đặc biệt quan trọng trong các
chiến dịch vận động tranh cử, vì rất ít cử tri chỉ có cơ hội nhìn thấy các ứng
cử viên, nói gì đến việc trò chuyện với họ.
Chức năng
thứ hai của truyền thông là giám sát hoạt động của Chính phủ và các thể chế
quyền lực trong xã hội. Nhờ có sự khách quan và độc lập – mặc dù chưa hoàn hảo
– truyền thông đã giúp phơi bày sự thật đằng sau những tuyên bố của chính phủ
và buộc các quan chức chính phủ phải có trách nhiệm về những hành động của họ.
Truyền
thông cũng có thể đóng một vai trò tích cực hơn trong cuộc tranh luận công khai
thông qua các bài xã luận hoặc báo cáo điều tra. Đồng thời, nó là một diễn đàn
để các cá nhân và các nhóm bày tỏ quan điểm qua thư và bài viết và những thông
tin đưa lên mạng, với rất nhiều quan điểm khác nhau.
Các nhà
bình luận còn chỉ ra một vai trò ngày càng quan trọng nữa của truyền thông là
“xây dựng chương trình nghị sự”. Do không thể thông tin về tất cả, nên các phương
tiện truyền thông phải chọn vấn đề nào cần nhấn mạnh và vấn đề nào nên bỏ qua.
Tóm lại, họ có xu hướng phải quyết định cái gì là tin tức và cái gì không. Đổi
lại, những quyết định này sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của công chúng về vấn đề
quan trọng nhất. Tuy nhiên, không giống với các nước mà ở đó truyền thông bị
chính phủ quản lý, truyền thông ở một nền dân chủ không thể đơn giản cứ theo ý
muốn mà xuyên tạc hay làm ngơ trước các vấn đề. Vì rút cục thì các đối thủ cạnh
tranh được tự do kêu gọi sự quan tâm, chú ý đối với danh sách những vấn
đề quan trọng của họ.
Công dân ở
một nền dân chủ tin tưởng rằng với sự trao đổi cởi mở các ý tưởng và quan điểm,
cuối
cùng sự
thật sẽ chiến thắng, giá trị của những người khác sẽ được hiểu rõ hơn, những
lĩnh vực thỏa hiệp sẽ được xác định rõ hơn và con đường tiến bộ sẽ mở ra. Mức
độ trao đổi càng lớn càng tốt.
Nhà văn
E.B. White nhận xét: “Giới báo chí ở đất nước tự do của chúng ta là đáng tin
cậy và hữu ích không phải bởi đặc điểm tốt của nó mà bởi chính tính đa dạng của
nó. Chừng nào còn nhiều người sở hữu các phương tiện truyền thông, mà mỗi người
đều theo đuổi lĩnh vực tìm kiếm sự thật riêng của mình, khi đó chúng ta còn cơ
hội đến với sự thật và sống trong sự thật… đông người thì không sợ gì cả”.
CÁC ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ, NHÓM LỢI
ÍCH, TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ
Không thể
yêu cầu công dân tham gia vào tiến trình chính trị, nhưng nếu không có hành
động của công dân, nền dân chủ sẽ bị suy yếu. Công dân có quyền tự do hội họp
và thành lập những tổ chức của riêng mình nếu thấy phù hợp. Đó là nhân tố cơ
bản của dân chủ.
Các đảng
phái chính trị
Các đảng
phái chính trị thu nạp, chỉ định và vận động tranh cử để bầu lên các quan chức;
xây dựng các đường lối chính sách cho chính phủ nếu họ là đảng nắm đa số; chỉ
trích hoặc đề xuất các chính sách thay thế nếu họ là đảng đối lập; huy động các
nhóm lợi ích ủng hộ các chính sách chung; giải thích cho công chúng về những
vấn đề công; xây dựng cơ cấu và nguyên tắc tiến hành tranh luận chính trị trong
xã hội. Trong một số hệ thống chính trị, ý thức hệ có thể là một nhân tố quan
trọng trong việc thu nạp và khuyến khích các thành viên trong đảng. Ở các hệ
thống chính trị khác, lợi ích kinh tế hoặc tình hình xã hội có thể quan trọng
hơn cam kết về ý thức hệ.
Các tổ chức đảng và những thủ tục
hoạt động trong các đảng phái rất khác nhau. Ở một góc độ, hệ thống nghị
viện đa đảng là tổ chức được quy định chặt chẽ nhất, hoàn toàn do các nhà
chuyên môn điều hành. Ở góc độ khác là nước Mỹ nơi có Đảng Dân chủ và Đảng Cộng
hòa là những tổ chức phi tập trung hóa hoạt động phần lớn tại Quốc hội và cấp
bang. Rồi cứ bốn năm một lần các tổ chức này lại tập hợp lại ở cấp quốc gia để
khởi động chiến dịch tranh cử tổng thống. Các chiến dịch bầu cử ở một nền dân
chủ thường phức tạp, tốn nhiều thời gian và đôi khi rất ngớ ngẩn, nhưng vai trò
của chúng rất quan trọng. Bầu cử là phương pháp hòa bình và công bằng, theo đó
người dân có thể lựa chọn các nhà lãnh đạo và quyết định chính sách công.
Các nhóm
lợi ích và tổ chức phi chính phủ
Công dân ở
một nền dân chủ có thể tham gia các tổ chức cá nhân hoặc tình nguyện, trong đó
có các nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích cố gắng bằng cách nào đó gây ảnh hưởng
đối với chính sách công và thuyết phục các quan chức ủng hộ những quan điểm của
họ. Chỉ trích có thể làm giảm ảnh hưởng của những “lợi ích đặc biệt” nhưng nó
giúp người dân nhận ra rằng nền dân chủ bảo vệ quyền của những nhóm lợi ích như
vậy để tổ chức và đấu tranh cho những quyền lợi của họ.
Nhiều nhóm
lợi ích truyền thống đã được tổ chức xuất phát từ các vần đề kinh tế; các nhóm
kinh doanh và nông nghiệp; các liên đoàn lao động tiếp tục có ảnh hưởng lớn
trong hầu hết các hệ thống dân chủ. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ gần đây, các
nhóm lợi ích đã lớn mạnh cả chất lượng lẫn số lượng, bao quát hầu hết các lĩnh
vực như xã hội, văn hóa, chính trị và thậm chí cả các hoạt động tôn giáo. Các
tổ chức chuyên môn cũng lớn mạnh cùng các nhóm lợi ích công ủng hộ sự nghiệp
của họ từ cải thiện việc chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo đến bảo vệ môi
trường – những vấn đề có thể không trực tiếp đem lại lợi ích cho thành viên các
nhóm. Bản thân các chính phủ có thể cũng hoạt động giống các nhóm lợi ích. Ở
Mỹ, các hiệp hội thống đốc bang, thị trưởng những thành phố lớn và các cơ quan
lập pháp bang thường xuyên vận động quốc hội Mỹ thông qua những vấn đề mà họ
quan tâm. Động lực của nền chính trị nhóm lợi ích khá phức tạp. Quy mô của các
nhóm có vai trò quan trọng, các nhóm với số lượng lớn thành viên trên cả nước sẽ
tự động lôi kéo được sự quan tâm chú ý của các quan chức. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp, những nhóm có quy mô nhỏ, được tổ chức chặt chẽ và cam kết mạnh
mẽ đối với những vấn đề của họ cũng có thể gây ảnh hưởng lớn so với số lượng
thành viên của họ. Một
trong
những phát triển đáng kinh ngạc nhất trong vài thập kỷ gần đây là sự xuất hiện
các tổ chức phi chính phủ trên quy mô toàn cầu. Với nỗ lực phục vụ nhu cầu của
cộng đồng, quốc gia hay vì một sự nghiệp được xác định là những vấn đề toàn
cầu, các tổ chức phi chính phủ này cố gắng hỗ trợ, thậm chí thách thức sự điều
hành của chính phủ bằng cách ủng hộ, tuyên truyền và thu hút sự chú ý đối với
những vấn đề chủ yếu và giám sát hoạt động của chính phủ và khu vực tư nhân.
Các chính phủ và tổ chức phi chính phủ luôn là đối tác của nhau. Các tổ chức
phi chính phủ cung cấp chuyên gia và hướng dẫn chuyên môn nhằm thực hiện những
dự án do chính phủ tài trợ. Các tổ chức phi chính phủ có thể không có liên kết
về chính trị hoặc có thể hoạt động trên lý tưởng đảng phái và tìm cách thúc đẩy
một sự nghiệp cụ thể hoặc một loạt sự nghiệp nào đó vì lợi ích của nhân dân. Dù
hoạt động theo hướng nào thì vấn đề mấu chốt là ở chỗ nhà nước kiểm soát hoạt
động của các tổ chức phi chính phủ ở mức thấp nhất.
QUAN HỆ QUÂN SỰ VÀ DÂN
SỰ
Vấn đề
chiến tranh và hòa bình là vấn đề trọng yếu nhất mà bất cứ quốc gia nào cũng có
thể phải đối mặt, đặc biệt ở những thời điểm khủng hoảng. Nhiều quốc gia phải
đưa quân đội lên nắm quyền lãnh đạo. Điều đó không xảy ra ở các nền dân chủ.
Ở các nền
dân chủ, vấn đề quốc phòng và mối đe dọa đối với an ninh quốc gia phải do nhân
dân quyết định thông qua các đại diện mà họ bầu lên. Quân đội ở một nền dân chủ
phải phục vụ đất nước chứ không lãnh đạo đất nước. Các lãnh đạo quân đội cố vấn
cho các nhà lãnh đạo được bầu lên và thực hiện những quyết định của họ. Chỉ có
những người được dân bầu lên mới có trách nhiệm và quyền lực tối cao trong việc
quyết định vận mệnh của dân tộc. Nguyên tắc kiểm soát dân sự đối với quân đội
là nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ.
Các lãnh
đạo dân sự cần lãnh đạo quân đội quốc gia và quyết định những vấn đề quốc phòng
không phải bởi vì họ giỏi hơn các chuyên gia quân sự mà bởi vì họ là đại diện
của nhân dân và do vậy họ có trách nhiệm đưa ra những quyết sách và chịu trách
nhiệm về những quyết định đó.
Ở một nền
dân chủ, quân đội tồn tại để bảo vệ đất nước và các quyền tự do của nhân dân.
Quân đội không được đại diện hay ủng hộ bất cứ quan điểm chính trị nào, không
được ủng hộ các nhóm sắc tộc hoặc nhóm xã hội nào. Quân đội phải trung thành
với những lý tưởng lớn hơn của dân tộc, trung thành với pháp quyền và nguyên
tắc dân chủ. Mục tiêu của quân đội là bảo vệ xã hội chứ không phải định hình xã
hội.
Bất cứ một
chính phủ dân chủ nào cũng coi trọng chuyên môn và tư vấn của các chuyên gia
quân sự trong việc thực hiện các quyết sách về quốc phòng và an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, chỉ có lãnh đạo dân sự được bầu ra mới có quyền đưa ra những quyết
sách cuối cùng về phòng thủ quốc gia và quân đội sau đó sẽ thực hiện những
quyết định đó.
Tất nhiên
các tướng lĩnh quân đội cũng tham gia vào đời sống chính trị với tư cách cá
nhân như các công dân khác. Nhân viên quân sự có thể tham gia bỏ phiếu bầu cử.
Tuy nhiên, tất cả nhân viên quân sự phải ra khỏi ngành hoặc nghỉ hưu mới có thể
tham gia chính trị. Nghĩa vụ quân sự phải tách biệt với chính trị. Quân đội là
đầy tớ trung lập của nhà nước và là người bảo vệ xã hội.
NỀN VĂN HÓA DÂN CHỦ
Đôi khi
con người có những mong muốn mâu thuẫn nhau. Họ muốn an toàn nhưng lại thích
thú mạo hiểm; họ muốn có tự do cá nhân, nhưng cũng đòi bình đẳng xã hội. Nền
dân chủ cũng vậy. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được rằng nhiều mâu
thuẫn này, thậm chí cả nghịch lý, đều hiển hiện ở mọi xã hội dân chủ.
Xung đột
và đồng thuận
Theo Larry
Diamond – học giả đồng thời là nhà văn – giữa xung đột và đồng thuận tồn tại
một nghịch lý cơ bản. Ở nhiều phương diện, dân chủ chỉ là một tập hợp những quy
định quản lý xung đột. Đồng thời, mâu thuẫn này phải được quản lý trong những giới
hạn nhất định và dẫn đến sự thỏa hiệp, đồng thuận hay những hình thức nhất trí
khác được tất cả các bên chấp nhận là hợp pháp. Bất cứ sự thiên vị nào đều có
thể đe dọa sự cân bằng. Nếu như các nhóm coi dân chủ chỉ là một diễn đàn để họ
bày tỏ nhu cầu thì xã hội có thể đổ vỡ từ bên trong. Nếu chính phủ gây sức ép
lớn nhằm đạt được sự đồng thuận, bất chấp ý kiến của nhân dân thì xã hội có thể
bị đổ vỡ từ bên trên.
Không có
giải pháp đơn giản nào để cân bằng xung đột và đồng thuận. Dân chủ không phải
là một cỗ máy có thể tự vận hành được khi những các nguyên tắc hợp lý được đưa
vào. Một xã hội dân chủ cần phải có sự cam kết của người dân, theo đó chấp nhận
xung đột chính trị và tri thức là điều tất yếu và điều cần thiết là phải có sự
khoan dung. Từ góc độ này, chúng ta phải nhận thức được rằng nhiều xung đột
trong xã hội dân chủ không phải là sự xung đột giữa “đúng” hay “sai”, mà là
xung đột về cách diễn giải thế nào là quyền dân chủ và ưu tiên xã hội.
Giáo dục
và dân chủ
Giáo dục
là một phần thiết yếu của bất cứ xã hội nào, đặc biệt quan trọng đối với một
nền dân chủ. Thomas Jeferson viết: “Nếu một quốc gia muốn được ngu dốt và tự do
trong một nền văn minh hóa có nghĩa là họ mong muốn những gì chưa bao giờ xảy
ra và sẽ không bao giờ xảy ra”.
Có sự gắn
kết trực tiếp giữa giáo dục và các giá trị dân chủ. Trong các xã hội dân chủ,
nội dung và thực tiễn giáo dục hỗ trợ cho những thực tiễn trong quản lý dân
chủ. Quá trình truyền bá giáo dục này cực kỳ quan trọng ở một nền dân chủ bởi
vì các nền dân chủ hiệu quả đều năng động, xây dựng những mô hình quản lý yêu
cầu người dân phải tư duy một cách độc lập. Cơ hội tạo ra những thay đổi tích
cực về chính trị – xã hội nằm trong tay của người dân. Chính phủ không được
coi hệ
thống giáo dục là phương tiện truyền bá cho học sinh mà cần dành nguồn lực cho
giáo dục giống như nỗ lực đảm bảo những nhu cầu cơ bản khác của người dân. Đối
lập với các xã hội chuyên chế tìm cách áp đặt thái độ tiếp thu bị động, mục
tiêu của nền giáo dục dân chủ là đào tạo ra những công dân độc lập, biết đặt
vấn đề và thực sự quen với những quan niệm và thực tiễn dân chủ. Chester.E.
Finn Jr., nghiên cứu viên cao cấp của Viện Chính sách Giáo dục Hoover nói: “mọi
người sinh ra vốn đã có ham muốn tự do cá nhân, nhưng lại không biết về những
dàn xếp chính trị và xã hội giúp mang lại tự do lâu dài cho bản thân và con cái
họ…Cần phải có những dàn xếp đó. Họ cần phải biết về chúng”. Tìm hiểu về dân
chủ bắt đầu từ trường học và tiếp tục khi chúng ta tham gia vào đời sống công
dân, đồng thời xuất phát từ sự tò mò muốn biết những loại thông tin có thể tiếp
cận được trong một xã hội tự do.
Xã hội và dân chủ
Chủ nghĩa
hợp hiến dân chủ về cơ bản là nền tảng theo đó các xã hội đạt đến sự thật – dù
không hoàn thiện – thông qua xung đột và thỏa hiệp các ý tưởng, các thể chế và
cá nhân. Dân chủ là thực dụng. Ý tưởng và giải pháp cho các vấn đề không được
kiểm nghiệm trên nền tảng một hệ tư tưởng cứng nhắc mà được kiểm nghiệm trong
một thế giới thực, ở đó người ta tranh luận, trao đổi, chấp nhận hay loại bỏ
chúng. Như học giả Diane Ravitch nhận xét: “xây dựng liên minh là bản chất của
hành động dân chủ. Xây dựng liên minh là chỉ cách cho các nhóm lợi ích thương
lượng với nhau, thỏa hiệp và vận hành trong hệ thống hiến pháp. Bằng việc thiết
lập liên minh, các nhóm có quan điểm khác nhau tìm hiểu cách tranh luận một
cách hòa bình, theo đuổi mục tiêu của họ một cách dân chủ và cuối cùng để tồn
tại trong một thế giới đa dạng”.
Chính phủ
tự quản không phải lúc nào cũng tránh được sai lầm, chấm dứt được xung đột dân
tộc, đảm bảo phát triển kinh tế hoặc giữ vững hạnh phúc. Tuy nhiên, nó cho phép
tranh luận công khai để xác định và sửa chữa những sai lầm; cho phép các nhóm
gặp gỡ và giải quyết những khác biệt; mang đến cơ hội phát triển kinh tế và
giúp nâng cao tiến bộ xã hội và sự bày tỏ của cá nhân.
Josef
Brodsky, cố thi sĩ người Nga và là người đoạt giải Nobel viết: “Một người tự do
khi thất bại anh ta sẽ không đổ lỗi cho ai”. Điều này hoàn toàn đúng đối với
công dân ở các nền dân chủ. Họ phải chịu trách nhiệm về vận mệnh của xã hội nơi
họ sinh sống. Bản thân dân chủ không đảm bảo điều gì. Thay vào đó, nó đưa đến
những cơ hội thành công và cả nguy cơ thất bại. Trong lời khẳng định mang tính
cảnh báo nhưng đầy triết lý của Thomas Jeferson, dân chủ hứa hẹn “cuộc sống, sự
tự do và mưu cầu hạnh phúc”.
Dân chủ
khi đó vừa là sự hứa hẹn và là một thách thức. Dân chủ hứa hẹn loài người tự
do, hợp tác với nhau, tự quản lý theo cách hướng tới thực hiện những khát vọng
về tự do cá nhân, cơ hội kinh tế và công bằng xã hội. Dân chủ là thách thức bởi
vì sự thành công của nền dân chủ phụ thuộc vào chính các công dân chứ không
phải ai khác.
Trung tâm
Hoa Kỳ
Phòng
Thông tin-Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ
Tầng 1,
Rose Garden Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà Nội